Lịch sử Giáo Hội Công Giáo

25

B16-last-audience.jpg

Trích từ sách “The Compact History of the Catholic ChurchTác giả Alan Schreck*

I. Giáo Hội Thời Các Tông Ðồ Và Các Giáo Phụ

Giáo Hội thời các Tông Ðồ (thế kỷ thứ nhất) là thời kỳ của các nhà lãnh đạo và thần học sáng giá của Kitô Giáo, các ngài thường được gọi là “Giáo Phụ”. Thời kỳ này thường được gọi là thời các Giáo Phụ. Khi nhìn đến các nhân vật, các biến cố và các phong trào quan trọng trong thời kỳ này sẽ giúp chúng ta hiểu được sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo cho đến thế kỷ thứ bảy.

Thế Kỷ Thứ Nhất: Ðặt Nền Tảng

Hầu hết những gì xảy ra trong Kitô Giáo ở thế kỷ thứ nhất thì quen thuộc với chúng ta, nhờ kinh thánh Tân Ước. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, chúng ta biết công cuộc truyền giáo đã nới rộng giáo hội của Ðức Giêsu Kitô từ nguyên thủy ở Giêrusalem, gồm những người Do Thái tòng giáo theo Ðức Kitô, đến những người Dân Ngoại ở nhiều nơi trong Ðế Quốc La Mã và cho đến tận Rôma. Sự bình an tương đối trong thế kỷ này, cũng như hệ thống đường bộ và đường thủy của người La Mã, đã giúp Kitô Giáo có thể phát triển nhanh chóng. Nền văn hóa chung và một ngôn ngữ chung cũng giúp cho sự bành trướng. Tuy nhiên, động lực chính của sự phát triển Kitô Giáo là Chúa Thánh Thần, Ðấng đã làm nên các tông đồ vĩ đại như Thánh Phaolô và các vị tử đạo như Stêphanô, là vị tử đạo đầu tiên.

Lúc đầu, Kitô Giáo được coi là một nhánh không quan trọng của Do Thái Giáo. Trong thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ thứ hai, hầu hết những người tòng giáo xuất thân từ các giai cấp thấp kém trong xã hội La Mã, gồm nhiều phụ nữ, thường dân, và nô lệ. Lúc đầu nhà cầm quyền La Mã không đếm xỉa đến người Kitô, nhưng vào năm 64, Hoàng Ðế Nero đổ tội cho họ là đã gây nên trận hỏa hoạn lớn ở Rôma mà có lẽ chính ông ta chủ mưu. Các tông đồ Phaolô và Phêrô, là các vị lãnh đạo giáo hội ở Rôma, đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu này. Người Kitô phải chôn cất và nhiều khi phải trốn tránh trong các hang toại đạo ở Rôma trong thời kỳ bách hại đầu tiên.

Tại sao các Kitô Hữu lại bị bách hại? Ngay cả những người ngoại giáo cũng có thể nhận thấy sự tương thân tương ái giữa các Kitô Hữu. Họ chăm sóc người nghèo, các bà goá và các em mồ côi, họ giúp đỡ các nạn nhân của dịch tễ và nạn đói cũng như các tù nhân. “Họ thương yêu nhau chừng nào” là câu nói đầu môi của người ngoại giáo. Tuy nhiên, thời bấy giờ, Kitô Giáo được coi là một tổ chức bí mật, gặp nhau thường xuyên vào sáng Chúa Nhật để ăn thịt và uống máu một người, là Ðức Kitô, và có lẽ họ có những hành động đồi bại tình dục như một số tôn giáo thời ấy. Dĩ nhiên, những đồn đãi ấy hoặc sai sự thật hoặc dựa trên những hiểu biết sai lầm về hành động của Kitô Hữu, khi họ gặp nhau ngày Chúa Nhật để cầu nguyện, nghe sách Thánh, chia sẻ sự hiểu biết về đời sống Ðức Kitô cũng như đọc thư của các tông đồ, và cử hành nghi thức Tiệc Ly, như Ðức Giêsu căn dặn. Nhà cầm quyền La Mã bắt đầu cho rằng Kitô Hữu là kẻ thù của Nhà Nước, cho họ là những người vô thần không chịu thờ các thần của người La Mã và cũng không tôn kính hoàng đế La Mã. Vào cuối thế kỷ thứ nhất, Hoàng Ðế Domitian phát động một cuộc bách hại Kitô Giáo cách dữ dội vì họ từ chối không chịu coi ông ta như một vị thần để hy sinh cho ông. Văn sĩ Kitô Giáo, Tertullian, sau này nhận xét “máu của các vị tử đạo là hạt giống của Giáo Hội,” và Kitô Giáo tiếp tục phát triển qua các nhân chứng đức tin đầy can đảm. Các giám mục Kitô Giáo, là các vị lãnh đạo giáo hội sau khi các tông đồ qua đời, tiếp tục trở nên gương mẫu đức tin cho dân Chúa – tỉ như các giám mục Rôma kế vị Thánh Phêrô là: Thánh Linus, Thánh Anacletus, và Thánh Clêmentê I. Vào cuối thế kỷ thứ nhất, trong Ðế Quốc La Mã ước lượng có khoảng nửa triệu người theo Ðức Kitô.

Thế Kỷ Thứ Hai: Tiếp Tục Phát Triển và Bảo Vệ Ðức Tin

Hai vị giám mục gương mẫu hy sinh tính mạng vì Ðức Kitô vào đầu thế kỷ thứ hai là Ðức Polycarp ở Smyrna và Ðức Ignatius (I-nha-xiô) ở Antiôkia. Sau khi bị bắt và trên đường bị điệu về Rôma để tử đạo vào khoảng năm 110, Ðức Ignatius đã viết bảy lá thư – một lá cho giáo đoàn ở Polycarp và các thư khác cho các giáo đoàn mà ngài gặp trên đường – để khuyến khích họ giữ vững đức tin. Ðức Ignatius còn cảnh cáo Kitô Hữu ở Rôma đừng tìm cách ngăn chặn cái chết của ngài. Ngài muốn sư tử nghiền nát xương thịt của ngài như hạt lúa để ngài có thể trở nên bánh tinh tuyền cho Ðức Kitô, như bánh của Thánh Thể. Sự tử đạo được coi là đường trực tiếp lên thiên đàng, do đó các Kitô Hữu tiên khởi rất tôn trọng các vị tử đạo. Trong lời cầu nguyện, họ xin các vị tử đạo cầu bầu cho họ trước mặt Thiên Chúa cũng như cho giáo hội trần thế (Khải Huyền 6:9-11; 7:9-17). Cũng có những gương can đảm của các phụ nữ, tỉ như Thánh Perpetua và Thánh Felicity, đã hy sinh tính mạng vì Ðức Kitô.

Trong thế kỷ thứ hai, sự lãnh đạo Giáo Hội đã có một hình thức đặc biệt mà hình thức ấy kéo dài mãi cho đến ngày nay trong Giáo Hội Công Giáo. Ngay từ đầu năm 110, Ðức Ignatius ở Antiôkia đã phúc trình rằng mỗi một giáo hội địa phương được hướng dẫn bởi một giám mục. Vị giám mục được phụ tá bởi “trưởng lão” (sau này gọi là “linh mục”) là người hướng dẫn cộng đoàn cử hành nghi thức Thánh Thể và các bí tích khác, vì khi cộng đoàn phát triển quá rộng đức giám mục không thể đích thân thi hành được. Ðức giám mục còn được sự phụ giúp của các “lao công nhà Chúa” (phó tế), là những người đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ giáo hội địa phương qua các phương cách thực tế, tỉ như phân phối tiền bạc và thực phẩm cho người nghèo và người có nhu cầu.

Ðược hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, các giám mục bắt đầu cùng làm việc để đối phó với các thử thách mới của thời bấy giờ và để phát triển một giáo huấn chung. Một thí dụ của giáo huấn chung là công thức tuyên tín (kinh tin kính), là bản tóm lược đức tin Kitô Giáo dùng để chuẩn bị cho các dự tòng trước khi Rửa Tội cũng như chỉ dẫn Kitô Hữu về đức tin.

Các giám mục cũng bàn thảo xem các văn bản nào được Thiên Chúa linh ứng cho toàn thể Giáo Hội. Một số người, tỉ như Marcion, đã từ chối tính cách linh ứng của Kinh Thánh Do Thái (Cựu Ước) và chỉ chấp nhận một số văn bản giới hạn. Các tổ chức khác, tỉ như Gnostic (Tri thức giáo) lại coi một số văn bản rất khác thường là do Thiên Chúa linh ứng. Thí dụ, một phúc âm của phái Gnostic đưa ra hình ảnh Ðức Giêsu khi còn nhỏ đã biến con chim bồ câu đất trở nên sống thực, và gây nên cái chết của những trẻ cùng lứa vì chúng chọc tức Ðức Giêsu. Ðể đối phó với vấn đề này, các giám mục đưa ra một danh sách các văn bản chính thức mà các ngài tin là Thiên Chúa linh ứng, được gọi là quy điển (canon), mà sau này được dùng làm nền tảng cho bộ Kinh Thánh của chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ thứ tư, bộ quy điển Tân Ước vẫn chưa được hoàn tất. Ðiều này cho thấy sự quan trọng của Chúa Thánh Thần trong việc dẫn dắt các giám mục nhằm tỏ lộ chân lý của Thiên Chúa một cách trọn vẹn.

Các giám mục của thế kỷ thứ hai còn phải đương đầu với các lạc thuyết, tỉ như sự tin tưởng rằng Thiên Chúa chỉ có một ngôi, và hậu quả là Ðức Giêsu Kitô chỉ là một con người; hoặc sự tin tưởng ngược lại là Kitô Hữu thờ ba chúa chứ không phải một. Phe Gnostic cho rằng bề ngoài Ðức Giêsu là một con người, nhưng thực sự ngài là một thần thánh (thuyết Docetism). Tất cả những tin tưởng này đều bị các giám mục lên án là sai lạc.

Các giám mục còn sửa sai các tổ chức tách rời khỏi Giáo Hội vì các lý do khác. Phe Montano, là những người tin theo một linh mục tên Montanus, họ cho rằng Ðức Giêsu sẽ tái giáng lâm ngay vào thời ấy. Họ muốn ép buộc mọi Kitô Hữu phải sống khắc khổ; họ còn cho rằng các điều họ được mặc khải có giá trị ngang bằng với các thư của Thánh Phaolô cũng như bốn Phúc Âm. Khi các giám mục Công Giáo không đồng ý với các điều này, phe Montanô khởi sự thành lập một giáo hội riêng và lôi cuốn được cả vị bảo vệ đức tin của Giáo Hội ở Bắc Phi, là Tertullian. Phe Montanô tan rã ngay sau khi Tertullian từ trần vào năm 220.

Nhiều giáo thuyết lầm lạc và các tổ chức lẻ tẻ xuất hiện trong thế kỷ này, nhưng chỉ có giáo hội hoàn vũ được hướng dẫn bởi giám mục đoàn là còn tồn tại. Thông thường, chính vị giám mục Rôma là người lên tiếng trả lời các tranh chấp. Sự kiện này khiến vị bảo vệ đức tin nổi tiếng là Ðức Giám Mục Irenaeus ở Lyons (hiện tại là nước Pháp), đã nói về Rôma rằng: “Tất cả các giáo hội khác (địa phương) phải đồng tâm nhất trí với giáo hội này (Rôma) vì tính cách ưu việt của nó.” Vào giữa thế kỷ thứ ba, Ðức Giám Mục Cyprian ở Carthage viết: “Hiệp thông với đức giám mục Rôma là hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo.”

Trong thế kỷ thứ hai việc bách hại Kitô Giáo chỉ thỉnh thoảng, nhờ đó Kitô Giáo được phát triển rộng lớn hơn và có thêm những người tòng giáo thuộc giai cấp cao hơn trong xã hội La Mã. Thiên Chúa bắt đầu gầy dựng các nhân vật thông minh xuất chúng để có thể giải thích và bảo vệ đức tin qua lý lẽ và triết học: Thánh Justin Tử Ðạo ở miền Ðông Mediterranean đã trình bầy Kitô Giáo như “một triết học đích thực”; Thánh Irenaeus ở Lyons coi mọi tạo vật được quy tụ và “tổng kết” trong Ðức Kitô; Ðức Athenagoras ở Athens viết một văn bản quan trọng để bảo vệ đức tin; và Ðức Clementê ở Alexandria thiết lập một khoa giáo huấn Kitô Giáo cho dự tòng. Các vị này đã viết thư cho các hoàng đế để thuyết phục họ đừng bách hại Kitô Giáo, thuyết phục người Do Thái về sự chân chính của Kitô Giáo, và chống với các lạc thuyết đang phá hoại đức tin chân chính (tỉ như, phái Gnostic cho rằng họ biết được những bí mật của con đường cứu chuộc mà các Kitô Hữu khác không biết). Các vị bảo vệ đức tin này cho thấy Kitô Giáo là một tôn giáo hợp lý và có thể hiểu được cũng như chấp nhận được bởi mọi người của mọi văn hóa và dân tộc. Vào cuối thế kỷ thứ hai, có khoảng 2 triệu người Kitô trên khắp Ðế Quốc La Mã, dù rằng Kitô Giáo vẫn là một tôn giáo không chính thức và bị Nhà Nước Rôma ngăn cấm.

Thế Kỷ Thứ Ba: Sự Bách Hại và Phát Triển Thần Học

Thế kỷ thứ ba là giai đoạn chính yếu trong sự phát triển Kitô Giáo cũng như thiết lập các tổ chức và hình thành thần học. Sự bình an tương đối ở Ðế Quốc La Mã từ năm 200 đến 250 đã đem lại thời gian cần thiết cho Giáo Hội để phúc âm hóa và cơ cấu hóa, cũng như các thần học gia có thì giờ suy tư và sáng tác.

Người đầu tiên hệ thống hóa tư tưởng Kitô Giáo, phần lớn dựa vào triết thuyết Hy Lạp, là Ðức Origen ở Alexandria (184 – 254), là người đứng đầu khoa giáo lý ở đây. Dù rằng một số tư tưởng của ngài sau này bị coi là sai lầm (về vấn đề ma quỷ cũng có thể được cứu chuộc và linh hồn thì đầu thai), Ðức Origen được coi là một nguồn trích dẫn có thẩm quyền trong thế kỷ tiếp đó. Ðức Origen chủ trương phải hiểu Kinh Thánh theo nghĩa biểu tượng – những hình ảnh và câu truyện tượng trưng cho những chân lý sâu xa hơn và cao cả hơn.

Thời gian tương đối êm ả của thế kỷ thứ ba đã giúp nhiều cộng đoàn Kitô Giáo được thành lập một cách dễ dàng và vì thế rất lỏng lẻo. Vào năm 250, Hoàng Ðế Decius, vì sợ số Kitô Hữu ngày càng gia tăng nên đã ra lệnh bách hại toàn thể Giáo Hội trong đế quốc. Trước mặt đại diện nhà cầm quyền, Kitô Hữu nào từ chối không chịu thờ cúng các thần ngoại giáo đều bị tử hình. Hàng ngàn Kitô Hữu vì sợ chết nên đã chối bỏ đức tin, mặc dù cũng có một số sẵn sàng chịu tử đạo. Ðược một năm, cũng như lúc khởi đầu, lệnh bách hại đột ngột chấm dứt, và xảy ra cuộc tranh luận về vấn đề những người chối đạo có được tái gia nhập Giáo Hội hay không. Ðức Giám Mục Cornelius của Rôma và Ðức Giám Mục Cyprian của Carthage chủ trương rằng các giám mục có thể thay quyền Thiên Chúa để tha tội, dù tội trọng, như chối bỏ đức tin, qua sự đền tội khắt khe và lâu dài. Novatian, một linh mục của Rôma bất đồng ý và đã đứng ra thành lập một giáo hội riêng gồm những người đã trung thành với đức tin khi bị bách hại. Giáo Hội Công Giáo xác nhận rằng cộng đồng dân Chúa bao gồm cả những kẻ tội lỗi chứ không chỉ những người chưa bao giờ phạm tội trọng.

Vấn đề này lại tái diễn sau cuộc bách hại của Hoàng Ðế Diocletian từ năm 303 đến 311, mà trong đó các giám mục và linh mục buộc phải giao nộp sách Phúc Âm và sách thiêng liêng để bị thiêu hủy. Sau khi cuộc bách hại chấm dứt, một số Kitô Hữu ở Bắc Phi từ chối không công nhận thẩm quyền của các giám mục và linh mục đã lẩn trốn trong cuộc bách hại hoặc đã trao nộp sách thiêng liêng. Những Kitô Hữu này thành lập một giáo hội riêng và lấy tên là Giáo Hội Ðônatô theo tên của vị giám mục Donatus. Giáo hội này chỉ công nhận thẩm quyền của các vị lãnh đạo đã không chịu trao nộp sách thiêng liêng. Một lần nữa, Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng các người lãnh đạo đã vấp ngã vì “thử thách” vẫn có thể tiếp tục hướng dẫn cộng đồng, vì quyền bính của họ xuất phát từ chính Ðức Kitô. Ngay cả sự yếu đuối và tội lỗi cá nhân cũng không thể làm mất đi sứ vụ mà Ðức Kitô đã giao phó cho họ qua bí tích chức thánh.

Một nguyên tắc quan trọng của Công Giáo xuất phát từ biến cố này: thẩm quyền ban phát các bí tích, giảng dạy, hay hướng dẫn Giáo Hội không tùy thuộc vào sự xứng đáng hay thánh thiện của cá nhân thừa tác viên chức thánh. Ðức Giêsu tiếp tục hoạt động qua trung gian của loài người và tha thứ cho sự yếu hèn của họ, để chứng tỏ rằng sức mạnh của bí tích và chức thánh thì xuất phát từ Thiên Chúa, chứ không bởi loài người.

Cho đến thế kỷ thứ ba, có lẽ hình ảnh đúng nhất về Giáo Hội là cái nhìn của Thánh Cyprian về một con tầu vĩ đại, trong đó có cả kẻ tội lỗi cũng như các thánh và các vị tử đạo, tuy nhiên ơn cứu độ trong thế giới ngoại giáo và điêu tàn chỉ có thể tìm thấy nơi con tầu ấy.

Thế Kỷ Thứ Tư: Ðế Quốc Kitô Giáo và Khủng Hoảng Arian

Bất kể các cuộc bách hại dữ dội của các hoàng đế Decius và Diocletian, vào năm 300 số Kitô Hữu gia tăng khoảng năm triệu người trong tổng số 50 triệu của Ðế Quốc La Mã. Vào năm 311, Hoàng Ðế Galerius chấm dứt cuộc bách hại lâu dài của Diocletian. Tuy nhiên, một biến cố xảy ra vào năm tiếp đó đã thay đổi vận mệnh của Giáo Hội Công Giáo và của nền văn minh Tây Phương.

Hoàng Ðế La Mã của miền Tây (phía Tây Ðịa Trung Hải) là Constantine nằm mơ thấy có người hiện ra, đảm bảo là ông sẽ thắng trận nếu dùng dấu hiệu của Ðức Kitô bằng tiếng Hy Lạp, chữ Chi-Rho (). Khi ra lệnh khắc dấu hiệu này trên khiên thuẫn của quân lính và ông đã thắng lớn ở trận Milvian gần Rôma, ông cho rằng Thiên Chúa của người Kitô đã giúp ông chiến thắng. Năm kế đó (313), với sự đồng ý của Hoàng Ðế phương Ðông là Licinius, ông ban hành Chỉ Dụ Milan cho phép tự do tôn giáo trên toàn Ðế Quốc La Mã. Kitô Giáo không còn là một tôn giáo bất hợp pháp!

Ðó mới chỉ là bước đầu. Vào năm 324, khi Constantine trở thành hoàng đế độc nhất của đế quốc, ông bắt đầu tích cực hỗ trợ Kitô Giáo và coi đó là mối giây kết hợp mới trong Ðế Quốc La Mã thế cho việc thờ các thần của người La Mã. Constantine xây cất nhà thờ; thiết đặt các luật lệ nhằm tôn trọng ngày Chúa Nhật, Lễ Giáng Sinh và các ngày lễ Kitô Giáo khác; bảo vệ giáo sĩ Kitô Giáo; vân vân. Dù có nhiều giả thuyết khác nhau về động lực cũng như chiều kích sâu xa của việc Constantine trở lại Kitô Giáo, vào năm 313 ông tự xưng là một Kitô Hữu và được rửa tội khi trên giường hấp hối vào năm 337.

Kitô Hữu trên toàn đế quốc đã hân hoan khi nghe Constantine trở lại đạo. Ðây là điều họ từng cầu xin và chờ đợi hàng thế kỷ – một đế quốc Kitô Giáo. Tuy nhiên, không bao lâu Giáo Hội thấy rằng đó không phải là một ơn sủng thuần tuý không có những sự xáo trộn. Sự liên minh giữa Giáo Hội và quốc gia tạo nên nhiều căng thẳng, như lịch sử trong thế kỷ thứ tư đã cho thấy.

Một thí dụ là cuộc khủng hoảng Arian, là sự thử thách lớn nhất mà Giáo Hội phải đương đầu lúc bấy giờ, và có lẽ cả trong lịch sử Giáo Hội. Một linh mục tên Arius, ở Alexandria, Ai Cập, chủ trương rằng Con Thiên Chúa (được thể hiện qua Ðức Giêsu Kitô) không phải là Thiên Chúa mà là một tạo vật thượng đẳng của Thiên Chúa. Arius hậu thuẫn cho các lý luận của mình qua một số văn bản trong Phúc Âm (Gioan 14:28; Mc 13:32; 15:34; Mt 27:46), nhất là các đoạn nhấn mạnh đến nhân tính của Ðức Giêsu. Ðiều ngạc nhiên là Arius đã thuyết phục được một số giám mục Công Giáo.

Khi các giám mục bắt đầu tranh luận về giáo thuyết của Arius, Constantine coi đây là mối đe dọa cho sự hợp nhất của đế quốc và ông quyết định can thiệp. Ông triệu tập tất cả các giám mục trong “công đồng” đầu tiên ở Nicaea (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) năm 325. Các giám mục quyết định rằng Arius thì sai lầm và các ngài phát triển một công thức tuyên tín để làm sáng tỏ tín điều của Giáo Hội. Kinh tin kính này đã dùng chữ Hy Lạp homoousios để chống lại Arius — nghĩa là, Ðức Giêsu “đồng bản tính” hoặc “làm một” với Ðức Chúa Cha. Nói cách khác, bất cứ Chúa Cha như thế nào thì Chúa Con cũng vậy; nếu Chúa Cha là Thiên Chúa thì Chúa Con cũng là Thiên Chúa.

Cuộc tranh luận lẽ ra phải chấm dứt ở đây, nhưng đã không xảy ra như vậy. Hai trong ba vị giám mục sau này quyết định rằng, Giáo Hội không thể dùng một chữ không có trong phúc âm (homoousios) để giải quyết vấn đề, do đó họ quyết định là Arius đúng. Họ xoay sở để thay đổi ý kiến của một vài vị giám mục khác và sau cùng tìm cách thuyết phục vị tân hoàng đế. Tại đây bắt đầu một trang sử bất hạnh vì Nhà Nước Rôma can thiệp vào Giáo Hội. Khi các giám mục phò-Arius vận động để vị tân hoàng đế (và các hoàng đế tiếp đó) nghe theo ý kiến của mình, các hoàng đế bắt đầu dùng áp lực chính trị đối với các giám mục hỗ trợ Kinh Tin Kính Nicaea. Thật vậy, một số giám mục đã bị áp lực phải trục xuất ra khỏi giáo phận của mình.

Ðể tóm lược, sự khủng hoảng này đưa đến ba nhận định sau:

1. Thật nguy hiểm cho Giáo Hội khi để nhà cầm quyền dân sự dính líu đến các vấn đề thần học và tín lý cũng như vấn đề nội bộ Giáo Hội nói chung.

2. Sự xuất hiện của một số khuôn mặt vĩ đại, kiên trì bảo vệ chân lý. Trên tất cả làThánh Athanasius, đức giám mục của Alexandria, bị hoàng đế phe Arius lưu đầy năm lần vì ngài bảo vệ Công Ðồng Nicaea.

3. Nguyên tắc của Công Giáo là nếu cần phải dùng một chữ không có trong phúc âm để xác định hoặc làm sáng tỏ một chân lý, thì điều ấy hợp pháp. Người Công Giáo tin rằng, khi dẫn dắt Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không bị giới hạn trong Phúc Âm. Chân lý của Thiên Chúa được lưu truyền qua truyền thống đích thực của Kitô Giáo – qua công thức tuyên tín cũng như Phúc Âm. Danh từ homoousios là chữ duy nhất có thể bài bác lại Arius và xác nhận tín điều Kitô Giáo về thiên tính của Ðức Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa.

Trong thời kỳ khủng hoảng, mọi sự có vẻ tiêu điều vì lạc giáo Arian. Năm 361, Thánh Giêrôme viết, “Toàn thế giới bừng tỉnh và rên rỉ khi thấy mình thuộc phe Arian.” Nhưng sau đó, cả một làn sóng đảo ngược tình hình. Sau hoạt động bền bỉ của Ðức Athanasius ở Ai Cập, ba vị thần học lớn của Cappadocia thuộc Tiểu Á đã xuất hiện để bảo vệ Kinh Tin Kính Nicene: Thánh Basil ở CaesareaThánh Grêgôriô ở Nyssa, và Thánh Grêgôgiô ở Nazianzus. Văn bản và ảnh hưởng của các ngài đã thuyết phục được các giám mục còn lưỡng lự hoặc chưa hỗ trợ lập trường của Công Ðồng Nicaea. Năm 381, Công Ðồng Constantinople tái xác nhận Chúa Con thì “đồng bản tính” (homoousius) với Chúa Cha, và công đồng còn thêm là Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa như các Giáo Phụ Cappadocia đã lập luận. Kinh Tin Kính Nicaea mà người Công Giáo ngày nay tuyên xưng trong Thánh Lễ Chúa Nhật thực sự đã được các giám mục trong công đồng này tuyên xưng. Không may, sự tin tưởng lầm lạc của phe Arian lan tràn đến các bộ lạc chung quanh Ðế Quốc Rôma (như bộ lạc người Visigoth, người Ostrogoth, và người Vandal), là những người đã quấy phá Giáo Hội Công Giáo trong thế kỷ tới khi họ chiếm được khá nhiều lãnh thổ của Ðế Quốc Rôma.

Việc chấm dứt bách hại người Kitô trong Ðế Quốc Rôma cũng đưa đến kết quả là chấm dứt sự tử đạo. Trong thế kỷ thứ tư một số anh hùng mới mẻ của đức tin xuất hiện: đó là các đan sĩ, và cũng được gọi là Tu Phụ Sa Mạc. Họ đích thực là những người đáp lời mời gọi của Ðức Giêsu để bán tất cả của cải, phân phát cho người nghèo, và đi theo Người. Ðể noi gương Ðức Kitô qua đời sống hãm mình và cầu nguyện, họ đi vào sa mạc hoặc hoang địa để sống cô độc với Thiên Chúa. Chữ “đan sĩ” được dịch từ tiếng Latinh “monos” (đan độc). Khoảng năm 270, Antony, một nông dân Ai Cập, đã đi vào sa mạc và mãi cho đến năm 305 ngài mới về lại thành phố và trở nên một bậc thầy về linh đạo. Thánh Athanasius đã lưu danh muôn thuở tên tuổi của Thánh Antony và giúp lan truyền phong trào “đan viện” hoặc “ẩn tu” qua những bài viết về tiểu sử Thánh Antony. Thánh Athanasius luôn luôn là người bạn chí thiết và nhiệt liệt hỗ trợ các đan sĩ trong suốt cuộc đời ngài.

Thánh Pachomius, một người Ai Cập khác, đã thành lập một cộng đoàn khổ tu trong sa mạc gần sông Nile và từ đó đã phát sinh một nếp sống đan viện mới. Hầu hết các đan sĩ sau thời kỳ này đã sống gần nhau trong các làng thưa thớt hoặc cùng sống chung với nhau qua những lúc cầu nguyện, thờ phượng và làm việc. Họ dùng toàn thời gian còn lại để chiêm niệm, một số để làm việc, và thường thường trong thinh lặng.

Lối sống mới này của Kitô Giáo, phong trào đan viện hay khổ tu, không phải là điều kỳ cục hoặc có vẻ mầu mè của quá khứ. Nó lan rộng khắp Ðế Quốc La Mã và mau chóng thu hút được nhiều người muốn theo Ðức Kitô, sống đời cầu nguyện và khước từ bản thân trong một phương cách quyết liệt. Mặc dù ngày nay, một số người cho đó là lối sống kỳ quặc hoặc một cách thoát khỏi thực tế, nhưng đó là một chứng từ đối với những người thời ấy và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Ðời sống đan viện chứng minh rằng người Kitô không chỉ sống cho sự thành công hoặc vui thú ở đời này nhưng còn để thờ phượng Thiên Chúa và chuẩn bị cho sự sống đời sau. Thời gian ấy, các đan sĩ được Kitô Hữu kính trọng như các vị tử đạo mới, các nhân chứng mới cho Ðức Kitô.

Mặc dù các đan sĩ đi vào sa mạc để thoát khỏi thế gian, một số được gọi trở lại để phục vụ với tư cách giám mục, là các nhà lãnh đạo Giáo Hội. Các Giáo Phụ Cappadocia khởi sự là các đan sĩ sau đó được chọn làm giám mục vì sự thánh thiện và tài lãnh đạo của các ngài. Thật vậy, Thánh Basil ở Caesarea đã viết “quy luật” đầu tiên cho các đan sĩ thuộc Giáo Hội Ðông Phương. Nhiều vị giám mục vĩ đại của Ðông Phương và các giáo hoàng cũng như các giám mục Tây Phương (nói tiếng Latinh) trong thế kỷ kế tiếp cũng đã xuất thân từ đan viện. Thánh Gioan Chrysostom (354-407) vị thuyết giảng “kim khẩu” cũng khởi đầu là một đan sĩ, ngài làm giám mục Constantinople cho đến khi bị hoàng đế đầy ải.

Thánh Martin ở Tours sáng lập một đan viện ở Gaul (Pháp) năm 371, và thường được coi là Viện Phụ Tây Phương. Hai vị Giáo Phụ vĩ đại của Giáo Hội Tây Phương trong thế kỷ thứ tư là Thánh Augustine và Thánh Giêrôme cũng đã sống như các đan sĩ. Thánh Giêrôme, vị học giả Kinh Thánh vĩ đại của thế giới nói tiếng Latinh, đã sống khổ hạnh một thời gian khá lâu trong cái hang ở Bêlem. Thánh Augustine sống đời ẩn tu cùng với một số bạn hữu sau khi ngài trở lại Kitô Giáo. Ngài trở lại đạo là nhờ lời cầu nguyện của mẹ ngài là Thánh Mônica, và lời rao giảng của Thánh Ambrôsiô, vị giám mục của Milan. Dù được tấn phong làm giám mục của Hippo, Bắc Phi, Thánh Augustine vẫn sống như một đan sĩ và đã đặt ra quy tắc đan viện cho các đan sĩ mà ngài sống chung với họ. Lối sống kỷ luật này đã giúp Thánh Augustine, qua quyền năng của Thiên Chúa, trở nên một văn sĩ có ảnh hưởng lớn trong lịch sử Giáo Hội. Ngài viết cuốn Tự Thú (Confessions), những nhận định về Kinh Thánh, những văn bản chống với bè phái Donatist và lạc giáo Pelagianis, các luận án thần học vĩ đại (như cuốn On The Trinity), và sau cùng những nhận định xác đáng về sự tương giao giữa Giáo Hội và trần thế, cuốn The City of God.

Thế kỷ thứ tư là thế kỷ của sự khủng hoảng cũng như sự vĩ đại cho Giáo Hội Công Giáo. Năm 381, Theodosius tuyên bố Kitô Giáo là tôn giáo chính thức duy nhất của Ðế Quốc Rôma và ông muốn chấm dứt ngoại giáo. Số người theo Kitô Giáo vút cao và đưa đến vấn đề là nhiều người gia nhập Giáo Hội chỉ vì lợi ích chính trị. Bây giờ, làm người Kitô thì dễ dàng và thoải mái hơn người ngoại giáo, hoặc tín đồ của bất cứ tôn giáo nào khác. Ðiều này đưa đến một thử thách mới cho Giáo Hội. Mặc dù bài vở giáo lý căn bản cho người tân tòng đã được hình thành cách đầy đủ bởi các giám mục, như Thánh Cyril ở Giêrusalem, nhưng các bài giảng Chúa Nhật thường kéo dài từ ba đến bốn tiếng đồng hồ để dạy bảo làn sóng người tân tòng.

Vào năm 343, Công Ðồng Sardica trao toàn quyền của giáo hội Tây Phương cho vị giám mục Rôma là đức giáo hoàng, và quyết định này được Hoàng Ðế Gratian xác nhận năm 378. Ðức Giáo Hoàng Damasus tuyên bố rằng quyền bính của đức giáo hoàng thực sự không do bởi một công đồng hay một hoàng đế nhưng bởi chính Thiên Chúa qua mệnh lệnh của Người ban cho Thánh Phêrô (Mt 16:18). Ðể hỗ trợ cho thẩm quyền của đức giáo hoàng, Thánh Ambrôsiô đồng ý rằng “Ngai tòa Phêrô ở đâu, thì Giáo Hội ở đó“. Thánh Giêrôme viết cho Ðức Giáo Hoàng Damasus:

Tôi không theo bất cứ nhà lãnh đạo nào khác ngoại trừ Ðức Kitô, và do đó tôi vẫn muốn hiệp thông với ngài trong Giáo Hội, đó là, với ngai toà Thánh Phêrô. Tôi biết, Giáo Hội được thành lập trên tảng đá này.

Mặc dù trong thế kỷ này, đức giám mục của Constantinople ngày càng gia tăng thẩm quyền và được coi như các “thượng phụ” (hoặc trưởng giám mục) của Ðông Phương hay các giáo hội nói tiếng Hy Lạp, nhưng không một quyết định nào có thể ràng buộc Giáo Hội Công Giáo mà không có sự chấp thuận của giám mục Rôma.

Nhưng chúng ta sẽ thấy, sự can trường và thẩm quyền của đức giáo hoàng và các giám mục sẽ bị thử thách nặng nề trong thế kỷ thứ năm bởi các tranh luận về thần học và bởi Ðế Quốc Rôma bị xâm lăng.

Thế Kỷ Thứ Năm: Vấn Ðề Ðức Tin và Những Liên Kết Mới Về Chính Trị

Thế kỷ thứ năm bắt đầu bằng sự chia cách thực sự giữa các đế quốc của Ðông Phương (nói tiếng Hy Lạp) và Tây Phương (nói tiếng Latinh). Chúng ta có thể nhắc lại lịch sử của mỗi miền một cách riêng biệt. Vào năm 410, Tây Phương bị rúng động bởi hành động xâm lấn của bộ lạc người Visigoth. Dần dà, các bộ lạc khác như Vandal và Hun cũng đã xâm lấn các phần đất của Ðế Quốc Tây Phương, cho đến khi họ hoàn toàn kiểm soát Tây Phương vào năm 476. Khi thế lực chính trị của Rôma tan rã, đức giáo hoàng và các giám mục bắt đầu phải dẫn dắt và bảo vệ dân Chúa về phương diện vật chất cũng như tinh thần. Có lẽ vị lãnh đạo Giáo Hội can đảm nhất là Ðức Lêô I, là giáo hoàng từ 440 đến 461, ngài đã can gián Attila người Hun đừng xâm lăng Rôma, và đã thuyết phục Geneseric người Vandal dù cướp bóc Rôma nhưng đừng tàn phá thành phố này. Vào thế kỷ thứ sáu và thứ bảy, “điểm vui mừng” là Kitô Hữu bắt đầu tìm cách đưa những người theo lạc giáo Arian trở về với Công Giáo. Giáo Hội thường “chiến thắng những kẻ chinh phục” theo phương cách này – đó là sự hoán cải.

Sự thử thách về phương diện thần học của Giáo Hội Tây Phương trong thời gian này là ảnh hưởng của phe Pelagius. Pelagius là một đan sĩ người Anh cho rằng bản tính loài người không bị hư hỏng bởi tội nguyên tổ. Do đó, người ta không cần ơn Chúa để xa lánh tội lỗi nhưng chỉ cần sống tốt lành, như Ðức Giêsu. Giáo Hội Tây Phương nhận định rằng Pelagius đã sai lầm, vì nếu như thế ơn cứu độ sẽ tùy thuộc vào công sức của loài người chứ không phải là ơn sủng của Thiên Chúa. Một số thần học gia nghĩ rằng, Thánh Augustine đã đi quá xa khi bài bác Pelagius, khi ngài cho rằng mọi sự đều nhờ đến ơn Chúa và công phúc của loài người chỉ có giá trị rất nhỏ. Công Ðồng Orange năm 529 đưa ra quyết định dựa trên quan điểm của Thánh Augustine, nhấn mạnh đến sự tuyệt đối cần thiết của ơn Chúa để có thể thi hành điều lành, nhưng cũng công nhận rằng cần có sự cộng tác của loài người trong việc chấp nhận ơn sủng của Thiên Chúa.

Trong Ðế Quốc Ðông Phương, tình hình chính trị ổn định hơn đã đem lại cơ hội cho các giám mục và thần học gia chú trọng đến các vấn đề thần học. Trước hết, đức giám mục của Constantinople là Nestorius cho rằng không thể gọi Ðức Maria làtheotokos, nghĩa là Mẹ Thiên Chúa. Nestorius là một phần tử của nhóm thần học được gọi là trường phái Antiôkia, nhóm này không muốn bị mơ hồ giữa thiên tính và nhân tính. Gọi Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa sẽ đưa đến sự lẫn lộn giữa Thiên Chúa và loài người, vì Ðức Maria không thể sinh ra Thiên Chúa.

Tuy nhiên, một nhóm khác được gọi là trường phái Alexandria, do Thánh Cyril là giám mục của Alexandria đứng đầu, lại không thấy có gì trở ngại khi gọi Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì câu xưng tụng đó đã bảo vệ được tính cách hiệp nhất của thiên tính và nhân tính Ðức Giêsu. Vấn đề này được giải quyết vào năm 431 bởi Công Ðồng Êphêsô, trong đó các giám mục tuyên bố là Nestorius sai lầm và xác nhận truyền thống lâu đời của Kitô Hữu khi cầu xin với Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Ðiều này có nghĩa Ðức Maria là mẹ của Thiên Chúa trong bản tính loài người, người mẹ của “Thiên Chúa làm người”, chứ không phải mẹ của Ðức Giêsu về bản tính Thiên Chúa.

Cuộc tranh luận về bản tính của Ðức Kitô đã nẩy sinh một cuộc tranh luận khác vào giữa thế kỷ. Không kể đến sự kèn cựa có tính cách chính trị ở hậu trường giữa đức thượng phụ Constantinople và đức thượng phụ Alexandria, còn có vấn đề thần học nghiêm trọng về bản tính Ðức Giêsu, vấn đề Người chỉ có một bản tính là thiên tính hoặc có hai bản tính tách biệt nhau gồm thiên tính và nhân tính. Sau cùng, vấn đề được giải quyết trong Công Ðồng Chalcedon năm 451 mà trong đó các giám mục đã tổng hợp và quân bình những điều tin tưởng chính đáng của hai trường phái Antiôkia và Alexandria. Công đồng tuyên bố rằng Ðức Giêsu có hai bản tính, thiên tính và nhân tính, cùng hợp với nhau “một cách không mơ hồ hoặc biến đổi, không phân chia hoặc tách biệt” để hình thành một con người trọn vẹn của Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể.

Yếu tố then chốt để giải quyết vấn đề là lá thư của Ðức Giáo Hoàng Lêô I mà trong thư ấy, ngài đã tiên đoán đúng để đưa ra những hướng dẫn cho các giám mục Ðông Phương trong Công Ðồng Chalcedon. Công đồng này đem lại nhận thức căn bản về bản tính của Ðức Giêsu Kitô mà vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.

Nhưng không may, vấn đề không chấm dứt ở đây. Như đã xảy ra sau Công Ðồng Nicaea năm 325, một số Kitô Hữu ở Ðông Phương tẩy chay quyết định của Công Ðồng Chalcedon năm 451 và họ tiếp tục tin rằng Ðức Giêsu Kitô chỉ có một bản tính (monophysis), là bản tính Thiên Chúa. Những người này mệnh danh là Monophysite và tự tách rời thành lập giáo hội riêng ở Ðông Phương. Một số (có thể nói hầu hết) các thần học gia sáng giá của Ðông Phương trong thế kỷ thứ năm và thứ sáu đều thuộc Monophysite. Ngay cả các thủ đoạn chính trị của các hoàng đế Ðông Phương như Justinian cũng không thể tiêu diệt hoặc khuất phục được người Monophysite.

Trong thế kỷ thứ năm và thứ sáu, có sự phát triển mạnh mẽ về tư tưởng và quan niệm thần học trong Ðế Quốc Ðông Phương. Thần học này, thường được gọi là Byzantine, được phong phú hoá bởi tư duy triết Hy Lạp, kể cả lý luận của Aristotle. Thần học Byzantine không chỉ trích dẫn trong Phúc Âm mà còn dùng đến các văn bản của các Giáo Phụ Ðông Phương (ngay cả Ðức Cyril) như các nguồn trích dẫn có thẩm quyền. Ở Ðông Phương, không có sự cách biệt lớn lao giữa giáo sĩ và giáo dân hoặc Giáo Hội và nhà nước. Các hoàng đế như Justinian tự coi mình là thần học gia và cảm thấy có trách nhiệm dẫn dắt Giáo Hội, ngay cả việc sử dụng đến quyền bổ nhiệm hoặc truất phế các giám mục. Vào thời kỳ này, ở Ðông Phương có sự liên minh chặt chẽ giữa Giáo Hội và nhà nước cho đến khi có sự xâm lăng của người Hồi Giáo.

Kitô Hữu Ðông Phương cũng phát triển một cách thờ phượng phong phú và đầy ý nghĩa, được kéo dài cho đến ngày nay. Họ nhấn mạnh đến tính cách linh thiêng của các mầu nhiệm đức tin, các nghi thức và phụng vụ của họ thật huy hoàng và nhiều cảm xúc. Họ thành lập nghi thức phụng vụ riêng, tỉ như Phụng Vụ Thánh Gioan Chrysostom mà càng ngày càng tách biệt với các phụng vụ Latinh của Tây Phương. Giáo Hội Ðông Phương cũng nhấn mạnh đến việc sùng kính Ðức Maria và các thánh.

Thế Kỷ Thứ Sáu: Chấm Dứt Một Kỷ Nguyên và Mở Ðầu Kỷ Nguyên Mới

Một giai đoạn lớn lao trong việc học hỏi thần học và linh đạo được gọi là Thời Các Giáo Phụ đi đến kết thúc vào thế kỷ thứ sáu. Tây Phương thì đủ bận rộn với vấn đề sống còn khi phải đương đầu với sự xâm lăng của các bộ lạc từ phương bắc, phương đông, và phương nam.

Ðế Quốc Ðông Phương, trước đây từng ổn định, bây giờ bắt đầu bị đe dọa bởi sự tấn công của người Hồi Giáo, mà sau đó đã bị tràn ngập. Ðế Quốc Tây Phương dưới sự kiểm soát của những bộ lạc theo Arian bắt đầu hoán cải những người này trở lại Kitô Giáo, và lần lượt từng vương quốc ở Tây Phương sụp đổ (người Burgundy năm 532; người Vandals năm 533; người Ostrogoth năm 553). Trong khi đó, Clovis, vua người Frank, đã trở lại Kitô Giáo năm 496 và mạnh mẽ hỗ trợ Giáo Hội. Năm 529, Thánh Benedicto (Biển Ðức) thành lập một đan viện ở Cassino nước Ý mà không bao lâu đã thay đổi cả bộ mặt Âu Châu. Dựa trên một chính sách lành mạnh “vừa làm vừa cầu nguyện” và chủ trương các đan sĩ chỉ ở một nơi, các đan viện của Thánh Biển Ðức trở nên trung tâm duy trì các nền văn hóa Tây Phương và La Mã, đồng thời cũng là nơi truyền bá Phúc Âm. Dưới thời Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô I (Cả), các đan sĩ Biển Ðức là một sức mạnh truyền giáo đáng kể.

Tuy nhiên, trước thời các đan sĩ Biển Ðức, Thánh Patrick đã đem tin mừng đến Ái Nhĩ Lan (461) và thành lập các đan viện khổ tu giống như các đan viện của Thánh Pachomius ở Ai Cập. Thánh Columba, một đan sĩ Ái Nhĩ Lan, thành lập một đan viện ở Iona, Tô Cách Lan năm 563. Nhờ đó, các bán đảo người Anh bắt đầu biết đến Kitô Giáo. Và lịch sử Giáo Hội bước sang một giai đoạn mới, thời Trung Cổ.

II. Giáo Hội Thời Trung Cổ (600-1300)

Giai đoạn bảy trăm năm này của lịch sử Kitô Giáo được ghi dấu bằng sự hoán cải của các dân tộc và các bộ lạc. Ðó cũng là thời kỳ xáo trộn chính trị, và các xung đột xảy ra là để xác định mối tương giao đúng đắn giữa Giáo Hội và nhà nước. Ở Tây Phương, điều này đưa đến sự xuất hiện “thế giới Kitô Giáo,” sự liên minh giữa Giáo Hội và nhà nước. Thế giới Kitô Giáo đem lại nhiều kết quả nhưng cũng tạo nên sự căng thẳng liên tục giữa các giáo hoàng và hoàng đế, giữa các vị lãnh đạo Giáo Hội và nhà nước. Ngoài ra còn có sự căng thẳng giữa Giáo Hội Công Giáo La Mã của Tây Phương và Giáo Hội Chính Thống Giáo Thánh Thiện của Ðông Phương. Các lạc giáo và sự xuyên tạc đức tin Kitô Giáo chân chính bắt đầu xuất hiện.

Cũng có những tiến bộ đáng kể trong Kitô Giáo thời Trung Cổ. Một số các học giả cũng như thánh nhân Kitô Giáo xuất hiện, và văn hóa Kitô Giáo đạt đến tầm mức mới trong lãnh vực nghệ thuật, văn chương, kiến trúc, và thần học. Các dòng tu mới cũng phát triển, đem lại đời sống mới cho Giáo Hội, và các đan viện cũ được canh tân. Trong thời kỳ này, có lúc tưởng như Kitô Giáo đang trên bờ vực thẳm, nhưng ơn Chúa mạnh mẽ hơn bất cứ tình thế nào đã giúp Giáo Hội vượt qua giai đoạn đầy hiểm họa và chúc lành cho Giáo Hội với sự chiến thắng và sự phát triển. Các thế lực chính trị đã ngăn chặn công cuộc truyền giáo phát triển ra ngoài ranh giới của Âu Châu và Byzantine (khu vực phía đông của Ðịa Trung Hải), nhưng đó là thời gian để biến Âu Châu thành một lục địa Kitô Giáo và để duy trì đức tin ở Ðông Phương trước sự tràn lan của Hồi Giáo.

Thế Kỷ Thứ Bảy

Sự sụp đổ của Ðế Quốc Rôma cũ đã không làm nản lòng Thánh Grêgôriô Cả, vị giáo hoàng từ 590 đến 604, là người đặt nền tảng cho Giáo Hội ở Tây Âu trong thời Trung Cổ. Khi các nhà cầm quyền thế tục thất bại, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô đã nắm quyền kiểm soát miền trung nước Ý và đã cứu Rôma thoát khỏi nhiều cuộc xâm lấn của giặc Lombard. Ngài gửi các đại diện đến các giáo hội Tây Phương để khuyến khích và kiên cường họ trung thành với đức giáo hoàng. Các văn bản về thần học và linh đạo của ngài đã hướng dẫn tư duy thời Trung Cổ. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô I đã đích thân sai một đan sĩ Biển Ðức, Thánh Augustine, đến hoán cải người Angle và người Saxon ở Anh Quốc. Không bao lâu, vua Aethelbert của xứ Kent đã rửa tội, và Thánh Augustine được đặt làm giám mục của Canterbury. Các đan sĩ Ái Nhĩ Lan hoặc Celtic (Xen-tơ), do các thánh Adian và Cuthbert hướng dẫn, đã giúp hoán cải toàn thể nước Anh. Không bao lâu, Anh Quốc đã gửi các nhà truyền giáo đi khắp Âu Châu, tỉ như một đan sĩ Dòng Biển Ðức là Willebrord, nổi tiếng là vị Tông Ðồ cho người Hòa Lan đã được đặt làm giám mục cho phần đất này vào năm 695.

Trong Kitô Giáo Ðông Phương, công đồng thứ sáu được triệu tập ở Constantinople từ 680 đến 681 (Công Ðồng Constantinople III). Các giám mục lên án điều tin tưởng sai lạc là Ðức Giêsu chỉ có một ý chí, là ý chí Thiên Chúa, do lạc giáo Monotheletism chủ xướng. Nếu Ðức Giêsu có hai bản tính, thiên tính và nhân tính, thì Người cũng phải có hai ý chí — thiên ý và nhân ý.

Về phương diện chính trị, Hồi Giáo là đám mây đen ở chân trời. Mohammed từ trần năm 632, và các tín đồ của ông ngày càng gia tăng thế lực về quân sự và đe dọa xâm lăng Âu Châu. Chỉ sau khi họ bại trận trong các cuộc chiến chống với lực lượng Kitô Giáo Ðông Phương ở Constantinople từ 674 đến 678, và từ 717 đến 718, và ở mặt trận Tours năm 732, lúc ấy Âu Châu mới thoát khỏi sự chinh phục của các lực lượng Hồi Giáo.

Thế Kỷ Thứ Tám

Việc hoán cải các bộ lạc ở Âu Châu tiếp tục trong thế kỷ thứ tám dưới sự lãnh đạo của đan sĩ người Anh Dòng Bênêđíctô, là Thánh Boniface, vị Tông Ðồ của Ðức; ngài truyền giáo từ 723 đến 739. Thánh Boniface là một trong hàng trăm đan sĩ Bênêđíctô đã sống chết trong việc thiết lập đức tin Công Giáo ở Âu Châu, dưới sự dẫn dắt của đức giáo hoàng.

Với sự tiếp tay của Thánh Boniface, đức giáo hoàng liên minh với các vua của người Frank ở xứ Gaul (bây giờ là nước Pháp), khởi đầu từ Vua Pepin (hoặc Pippin). Năm 754, Ðức Giáo Hoàng Stêphanô II xức dầu tấn phong Pepin và ban tặng cho ông danh hiệu Quý Tộc Rôma, là một danh hiệu nguyên thủy chỉ ban tặng cho các hoàng đế La Mã. Ðiều này tạo nên sự trung kiên giữa đức giáo hoàng và các vua người Frank, mà tột đỉnh của mối giao hảo là lễ đăng quang của Charlemagne, con của Pepin, ở Rôma năm 800. Sự tương giao giữa các giáo hoàng và Charlemagne được triển nở trong nhiều năm. Hậu quả không may của liên minh này là sự xa cách của Giáo Hội Ðông Phương, vì giáo hội này vẫn trung thành với hoàng đế Byzantine ở Constantinople, là người mà họ coi là hoàng đế đích thực của Rôma. Mối tương giao giữa các giáo hội Ðông Phương và Tây Phương lại càng thêm rạn nứt khi Charlemagne, vì bất đồng với một quyết định của Công Ðồng Nicaea II của Giáo Hội Ðông Phương (787), mà ông đã đem quân giành lại phần đất mà hoàng đế Byzantine cho là của họ, và ông còn ép buộc Giáo Hội Ðông Phương phải thêm chữ filioque vào Kinh Tin Kính Nicaea. Nguyên thủy, kinh Tin Kính tuyên bố rằng Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha (Gioan 15:26); bản kinh của Tây Phương mà Charlemagne tán thành (và người Công Giáo Rôma ngày nay sử dụng) tuyên xưng rằng Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con (filioque). Ðiều này cho thấy khuyết điểm của sự liên minh chặt chẽ giữa Giáo Hội và nhà nước. Charlemagne là người cực lực bảo vệ Giáo Hội và giúp phát triển đức tin cũng như Giáo Hội Công Giáo; tuy nhiên, ông cũng muốn kiểm soát Giáo Hội và có những quyết định về thần học. Có lần, ông viết thư cho đức giáo hoàng nói rằng công việc của đức giáo hoàng là cầu nguyện cho Giáo Hội, còn công việc của ông, một hoàng đế, là cai quản Giáo Hội. Trên nguyên tắc, có sự phân biệt giữa thế quyền và thần quyền, nhưng trong thực tế, có những hoàng đế hoặc vua quan muốn nắm cả thần quyền, và cũng có các giáo hoàng muốn kiểm soát cả vấn đề chính trị và thế gian. Nhiều khi vua quan và các nhà cai trị thế tục muốn có quyền tuyển chọn và tấn phong linh mục và giám mục mà không cần hội ý của đức giáo hoàng hay các giám mục khác. Thói quen này, được gọi là giáo dân tấn phong giáo sĩ (lay investiture), là một trong những bất hòa lớn giữa các giáo hoàng và nhà cầm quyền thời Trung Cổ. Muốn được an toàn vì có hoàng đế hay vua là người theo Kitô Giáo thì phải chịu sự can thiệp của họ vào nội bộ Giáo Hội.

Phương cách mở rộng Kitô Giáo của Charlemagne là đem quân đi chinh phục lãnh thổ, rồi sau đó ông bắt người dân bị trị phải lựa chọn việc rửa tội “bằng nước hay bằng máu.” Ðây là thời kỳ khắc nghiệt khi biết bao người không được học hỏi về đạo mà theo đạo chỉ vì sợ nhà cầm quyền. Ðạo Công Giáo trở nên đạo xu thời, trong đó người dân được rửa tội hàng loạt với hy vọng sau này họ sẽ được học hỏi thêm về đức tin Kitô Giáo. Giáo Hội sợ bị rơi vào tình trạng ngoại giáo.

Ðể duy trì nền văn minh và giáo dục đức tin các tân tòng, người ta trông đợi ở các đan viện. Chính Charlemagne cũng cố gắng làm sống lại tinh thần học hỏi bằng cách tụ họp các học giả ngay trong dinh của ông — đứng đầu bởi một đan sĩ người Anh có học thức, tên Alcuin — và ông ra lệnh mỗi giám mục phải mở một trường học trong khuôn viên thánh đường của mình. Ðiều đó có ảnh hưởng đôi chút, nhưng sau khi Charlemagne từ trần và Ðế Quốc Carolingian bị chia cắt, tinh thần học hỏi tàn dần. Ngoại trừ các đan viện, Âu Châu chìm vào thời kỳ tăm tối của kiến thức và tâm linh.

Khi Kitô Hữu Ðông Phương chống với các lực lượng Hồi Giáo, họ cũng phải trải qua sự khủng hoảng thần học trong thế kỷ thứ tám. Vào năm 730, hoàng đế Byzantine là Lêô III, ban hành một sắc lệnh cấm Kitô Hữu không được sùng kính ảnh tượng, dù là ảnh Ðức Kitô hay các thánh. Mặc dù đây là phần quan trọng trong đời sống tâm linh của Kitô Hữu Ðông Phương, vua Leo III thấy việc “thờ ảnh tượng” đã bị cấm chỉ trong Phúc Âm, do đó ông ra lệnh phá hủy tất cả các ảnh tượng. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô III và nhiều Kitô Hữu Ðông Phương phản đối điều này, nhưng phải đợi đến khi Hoàng Hậu Irene triệu tập Công Ðồng Nicaea II (là công đồng thứ bảy) năm 787 thì việc sùng kính ảnh tượng mới được cho phép. Công đồng này phân biệt giữa sự sùng kính ảnh tượng thánh và sự thờ phượng, chỉ dành cho một mình Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo Rôma luôn luôn đồng ý với điều này, và thường dùng các hình ảnh, tranh vẽ, kính mầu, tượng điêu khắc để dạy bảo và nhắc nhở giáo dân về các chân lý đức tin. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô từng viết, “Hình ảnh là sách của giáo dân,” vì đa số dân chúng thời ấy không có học.

Thế Kỷ Thứ Chín

Ngay từ đầu thế kỷ thứ chín dường như đã có nhiều triển vọng cho Kitô Giáo Tây Phương. Charlemagne áp đặt đức tin trên các người bị đô hộ ở miền bắc và miền trung Âu Châu, dần dà dân chúng yêu quý Kitô Giáo và từ bỏ những hủ tục của quá khứ ngoại giáo. Các giáo hoàng cũng gia tăng ảnh hưởng, và sau khi Charlemagne từ trần, con của ông là Louis de Pious, công bố rằng quyền bính của vua thì tùy thuộc đức giáo hoàng. Con của Louis là Lothar được tấn phong ở Rôma năm 823, và sau đó tất cả các nhà cầm quyền của Ðế Quốc La Mã Thánh Thiện đều được tấn phong ở Rôma. Ðức Giáo Hoàng Nicôla I (858-67), vị giáo hoàng thế lực nhất thế kỷ, tuyên bố rằng nhiệm vụ của hoàng đế là bảo vệ Giáo Hội Công Giáo Rôma chứ không phải cai trị giáo hội. Không may, thế lực của hoàng đế suy yếu dần vì các khó khăn nội bộ và vì sự xâm lăng của người Viking từ phương bắc, người Hungari từ phương đông, và người Hồi Giáo Saracen từ phương nam. Sự hiệp nhất và nền hòa bình của đế quốc rộng lớn mà Ðại Ðế Charles khổ công xây dựng đã bắt đầu tan rã, và Âu Châu đắm chìm trong thời kỳ phong kiến — lục địa bị phân chia thành các nước nhỏ bé tranh giành nhau để sống còn và chém giết lẫn nhau.

Sự suy tàn của Ðế Quốc Tây Phương kéo theo sự tàn tạ của Giáo Hội Tây Phương. Sau Ðức Nicôla I, không còn giáo hoàng nào đủ mạnh để dẫn dắt Giáo Hội trong tình thế này. Trong khoảng thời gian từ 858 đến 879, cuộc ly giáo, hay cắt đứt quan hệ, đã xảy ra giữa các giáo hoàng và các thượng phụ của Constantinople. Lý do là vì một tham vọng đất đai của Ðức Giáo Hoàng Nicôla I và sau đó Ðức Thượng Phụ Photius cáo buộc rằng Giáo Hội Công Giáo Rôma không phải là giáo hội chính thống vì dùng chữ filioque trong kinh Tin Kính, vì duy trì tín điều về luyện ngục, và các cáo buộc sai lầm khác. May mắn thay, Ðức Photius đã rút lại các cáo buộc này; ngài đã hòa giải với vị tân giáo hoàng, và trong thế kỷ thứ mười, đã có sự bình an tương đối giữa hai Giáo Hội Tây Phương và Ðông Phương. Tuy nhiên, các vấn đề căn bản không bao giờ được giải quyết, và cuộc đại ly giáo giữa Ðông và Tây bắt đầu vào năm 1054 là hậu quả buồn thảm của thế kỷ này.

Vào cuối thế kỷ thứ chín, Hồi Giáo bắt đầu đàn áp Giáo Hội Ðông Phương, và sự bất ổn chính trị cũng như sự nhu nhược của các giáo hoàng đã bóp nghẹt Giáo Hội Tây Phương. Giáo sĩ bị kiểm soát bởi nhà cầm quyền thế tục và rơi vào tình trạng thất học cũng như không trung thành với lời thề sống độc thân. Hầu hết các đan viện cũng mất tinh thần đạo đức, trở nên thối nát và xu thời. Sự suy sụp của xã hội Tây Phương và sự tàn tạ của Giáo Hội xảy ra song song, vì cả hai liên hệ với nhau trong quá nhiều lãnh vực.

Tuy nhiên, ngay cả lúc đầy khuyết điểm, Thiên Chúa vẫn tiếp tục hoạt động trong Giáo Hội. Vào cuối thế kỷ thứ chín, hai đan sĩ, Methodius và Cyril, bắt đầu công cuộc truyền giáo cho người Khazar và người Slav ở Ðông Âu. Không những các ngài đem lại đức tin Kitô Giáo cho người dân mà Thánh Cyril còn sáng tác mẫu tự Slavonic để đem lại cho dân tộc này một ngôn ngữ mới và là một phương tiện mới cho nền văn hóa của họ.

Thế Kỷ Thứ Mười

Một sự thật đáng tiếc là đôi khi tình trạng tinh thần của Giáo Hội cũng không khác gì hơn tình trạng tinh thần của xã hội nói chung. Ðiều này rất đúng với thế kỷ thứ mười. Trong sáu mươi năm đầu, chức giáo hoàng bị kiểm soát bởi các nhà quý tộc Rôma, là những người không xứng đáng với chức vụ cao trọng này. Tệ hại nhất trong tất cả, Ðức Giáo Hoàng Gioan XII (955-64) quá thối nát đến độ Thiên Chúa phải giải thoát Giáo Hội Công Giáo của Người qua tay nhà cầm quyền thế tục, là Otto I (Ðại Ðế), là Hoàng Ðế Rôma Thánh Thiện đầu tiên của nước Ðức. Otto và các người kế vị muốn dùng Giáo Hội Công Giáo như một công cụ giúp phục hồi trật tự trong đế quốc.

Phương cách “giáo dân tấn phong giáo sĩ” — các hoàng đế lựa chọn các giám mục và ngay cả các giáo hoàng — là một trong những phương cách chính để kiểm soát Giáo Hội. Nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, các giáo hoàng được tuyển chọn bởi các hoàng đế Ðức lại là những người có phẩm hạnh cao, nhất là Ðức Giáo Hoàng Sylvester II (999-1003). Kết quả là Giáo Hội Tây Phương bắt đầu hồi sinh.

Yếu tố then chốt trong sự canh tân Giáo Hội vào thời điểm này là sự canh tân đời sống đan viện, được khởi sự bằng việc sáng lập một đan viện mới, tên Cluny ở Pháp vào năm 910. Ðan viện này thuộc dòng Bênêđíctô đặt riêng một số đan sĩ chỉ để cầu nguyện, và mọi người phải giữ im lặng, ngoại trừ khi đọc kinh Nhật Tụng. Các đan sĩ tự bầu lấy đan viện trưởng và chỉ chịu trách nhiệm với đức giáo hoàng, bởi đó không có sự kiểm soát của giáo dân. Tổ chức đan viện này quá hữu hiệu đến độ nhiều giám mục và thái tử đã mời đan viện Cluny thành lập các chi nhánh trong các giáo phận của họ (ở Hòa Lan, Ý, Tây Ban Nha, Anh và Ðức). Hệ thống dòng tu đầu tiên được bắt đầu, và vào năm 1100 đã có đến 1,500 chi nhánh. Sự canh tân của đan viện Cluny đưa đến sự cải tổ của các đan viện khác cũng như việc thành lập các hệ thống đan viện mới, tỉ như Dòng Camaldolese của Thánh Rômuanđô và Dòng Carthusian của Thánh Brunô. Ngọn lửa thánh thiện này đã canh tân Giáo Hội Công Giáo trong thế kỷ mười một khi các đan sĩ được mời làm giám mục trông coi các địa phận đang sẵn sàng cải tổ. Các chi nhánh của Cluny, do chính đức giáo hoàng điều khiển, trở nên một phương cách để đức giáo hoàng phục hồi tinh thần và quyền bính. Các vị giáo hoàng vĩ đại của hai thế kỷ tới — Ðức Grêgôriô VII, Ðức Urbanô II, và Ðức Paschal II — trước đây đều là các đan sĩ của Cluny.

Thế Kỷ Mười Một

Các hoàng đế Ðức của Ðế Quốc Otto tiếp tục kiểm soát Giáo Hội Tây Phương trong thế kỷ mười một, nhưng việc đề cử các giáo hoàng tương lai cũng như sự hỗ trợ của họ đã có một ảnh hưởng bất ngờ. Các giáo hoàng và các hồng y bắt đầu nhận thức rằng, chủ quyền đất đai cũng như việc tuyển chọn các giáo hoàng và giám mục của các hoàng đế và nhà cầm quyền thế tục là một vi phạm đến sự tự do của Giáo Hội. Các ngài tin rằng ngay cả các hoàng đế cũng phải phục tùng quyền bính thiêng liêng của phẩm trật Công Giáo.

Ðiều này rất đúng trên lý thuyết, nhưng không một giáo hoàng nào đủ mạnh và can đảm để đem ra thực hành, mãi cho đến năm 1073, khi Ðức Hồng Y Hildebrand được chọn làm giáo hoàng, lấy tên là Grêgôriô VII. Với tính khí nóng nẩy và niềm tin của một ngôn sứ thời Cựu Ước, trong sắc lệnh nổi tiếng của ngài (Dictatus papae, 1075), Ðức Grêgôriô tuyên bố: đức giáo hoàng đã được Ðức Kitô ban cho quyền tối cao qua Thánh Phêrô. Ðức giáo hoàng có quyền tổng quát trong Giáo Hội và cũng có quyền truất phế các hoàng đế, hoặc thay đổi các luật lệ nào mâu thuẫn với luật lệ của Thiên Chúa hay quyền bính của Giáo Hội. Nhất là, Ðức Grêgôriô đã dùng thẩm quyền của ngài để cải tổ Giáo Hội Công Giáo, mà lúc bấy giờ rất cần canh tân ở mọi tầng lớp. Ðức Grêgôriô VII chứng tỏ rằng, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, một giáo hoàng có thể canh tân Giáo Hội Công Giáo. Ngài nhấn mạnh rằng các linh mục phải trung thành với lời khấn độc thân và tẩy chay mọi hình thức buôn thần bán thánh, nhận tiền bạc để thi hành mục vụ. Khi các nhà cầm quyền và các giám mục, vì quyền lợi riêng tư, do dự thi hành sắc lệnh này, Ðức Grêgôriô đã gửi các đại diện của ngài đến tận nơi, sẵn sàng ra vạ tuyệt thông những ai từ chối không chịu cải tổ. Quyền bính của Ðức Grêgôriô VII được tỏ rõ khi ngài ra vạ tuyệt thông Hoàng Ðế Rôma Thánh Thiện là Henry IV vì không tán thành sự canh tân của Giáo Hội. Henry đã phải quỳ trên tuyết ở Canossa để xin đức giáo hoàng tha thứ, và đã được ban cho. Thật trớ trêu, việc tha thứ Henry IV đã làm các thái tử Ðức xa lánh, và dẫn đến việc lưu đầy của Ðức Grêgôriô và cái chết của ngài năm 1085. Từ nơi lưu đầy, Ðức Grêgôriô viết:

Kể từ khi Giáo Hội đặt tôi lên ngai tông đồ, tất cả những gì tôi mong muốn cũng như cùng đích mọi cố gắng của tôi là Giáo Hội Thánh Thiện… phải phục hồi vinh dự và được tự do, trong sạch và Công Giáo.

Công việc của Ðức Grêgôriô VII, được sự hỗ trợ của các đan viện, đã đẩy mạnh sự canh tân chính đáng của Giáo Hội Công Giáo và duy trì sự tự do của Giáo Hội khỏi sự kiểm soát của các nhà cầm quyền thế tục, là những người muốn lợi dụng Giáo Hội cho mục đích riêng tư của họ. Lý thuyết về quyền bính của đức giáo hoàng không có gì mới mẻ, nhưng lý thuyết ấy đã bênh vực và thi hành điều mà Giáo Hội Công Giáo tin tưởng từ bao thế kỷ về vai trò và quyền bính của đức giáo hoàng trong Giáo Hội và trong thế giới.

Các vị giáo hoàng sau đây của thế kỷ, Ðức Urbanô II (1088-99) và Ðức Paschal II (1099-1118), là những người thánh thiện, cương quyết tiếp nối công việc cải tổ và canh tân. Ðức Urbanô II kiên cường vai trò lãnh đạo của đức giáo hoàng qua việc triệu tập Công Ðồng Clermont năm 1095 để thành lập Thập Tự Quân lần thứ nhất, nhằm giải thoát các linh địa của Ðông Phương khỏi sự kiểm soát của người Hồi Giáo. Chắc chắn Ðức Urbanô đã không nhìn thấy tương lai của các cuộc thập tự chinh, ngài chỉ coi đó là một phương tiện thực tế để Giáo Hội Tây Phương biểu lộ đức tin nơi uy quyền của Ðức Kitô, và cũng để hỗ trợ Kitô Hữu Ðông Phương đang chịu đau khổ dưới các chế độ Hồi Giáo.

Thế kỷ mười một đánh dấu giây phút buồn thảm nhất của lịch sử Giáo Hội, là sự tách biệt giữa Giáo Hội Ðông Phương và Giáo Hội Tây Phương vào năm 1054. Sự chia cách này chắc chắn đã đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, là người đã sai Ðức Giêsu hình thành một dân tộc, một giáo hội. Vào thời điểm này, Kitô Giáo bị chia cắt làm hai: Giáo Hội Công Giáo – công nhận đức giáo hoàng như vị thủ lãnh ở thế gian — và Giáo Hội Chính Thống Giáo – do các thượng phụ lãnh đạo, tỉ như đức thượng phụ của Constantinople.

Ðiều gì đã gây nên cuộc ly giáo này? Các biến cố bề ngoài xảy ra ngay lúc đó chỉ là triệu chứng của các khó khăn đã âm ỉ trong nhiều thế kỷ. Hầu hết các sử gia đều cho rằng sự phân cách Ðông và Tây về cả hai phương diện, giáo hội (quyền tối thượng của đức giáo hoàng) và thần học (về vấn đề filioque). Trong các cuộc đối thoại đại kết ngày nay, vẫn còn hai trở ngại chính cho sự hợp nhất. Về quyền tối thượng của đức giáo hoàng, vấn đề được đặt ra là đức giáo hoàng có quyền cai quản và dạy bảo toàn thể Giáo Hội hay không. Tây Phương tin rằng đức giáo hoàng có thẩm quyền đó; Ðông Phương tin rằng mọi thượng phụ, kể cả vị giám mục Rôma, đều có quyền bằng nhau. Năm 1054, đức thượng phụ Constantinople, Micae Caerularius, chỉ trích một vài thông lệ của Giáo Hội Tây Phương, và xưng hô với đức giáo hoàng như một người anh em thay vì coi là vị cha chung, và đức thượng phụ từ chối không chịu tiếp đón các đại diện của đức giáo hoàng khi họ đến Constantinople trong ba tháng. Sau cùng, các vị đại diện đã để lại trên bàn thờ trong giáo đường của đức thượng phụ một Chỉ Dụ Tuyệt Thông và từ giã Constantinople sau khi “phủi bụi dưới chân các ngài.” Vài ngày sau, Ðức Micae Caerularius phản ứng lại bằng cách ra vạ tuyệt thông các đại diện và đức giáo hoàng. Vạ tuyệt thông đôi bên này được duy trì mãi cho đến năm 1965, khi Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI gặp gỡ Ðức Thượng Phụ Athenagoras trong vòng tay thân ái và cả hai đã cùng hủy bỏ vạ tuyệt thông ấy. Nhờ ơn Chúa, công việc tái hợp Chính Thống Giáo và Công Giáo Rôma hiện đang được tiến hành cách tốt đẹp.

Bất kể những tì tích của Giáo Hội, phúc âm của Ðức Giêsu Kitô tiếp tục được loan truyền. Trong thế kỷ mười một, Ðan Mạch và Na Uy theo Kitô Giáo, sau đó không lâu là Thụy Ðiển (1164). Nước Nga tiếp đón các nhà thừa sai từ Ðông Phương và cả Tây Phương, cho đến khi thái tử Nga quyết định rửa tội theo Giáo Hội Byzantine, mà sau đó trở thành Giáo Hội Chính Thống Nga với vị thượng phụ ở Moscow.

Thế Kỷ Mười Hai

Trong thế kỷ này có quá nhiều chủ đề riêng biệt nên được chia ra thành các đề tài sau:

1. Các tương giao giữa Giáo Hội và Nhà Nước ở Tây Phương: Ðức giáo hoàng và Hoàng Ðế Rôma Thánh Thiện tiếp tục tranh giành quyền tuyển chọn các giám mục và tu viện trưởng, mãi cho đến khi có sự tương nhượng sau Thỏa Ước Worms năm 1122. Theo thỏa ước này, các giám mục và tu viện trưởng được tuyển chọn theo luật của Giáo Hội, với quyền bổ nhiệm của nhà cầm quyền dân sự nếu muốn, và trong nghi thức tấn phong Giáo Hội sẽ ban cho họ nhẫn và gậy giám mục. Như vậy, đức giáo hoàng, tu viện trưởng, và các giám mục bị kẹt giữa hai thế giới, thế giới quyền lực chính trị và thế giới lãnh đạo tinh thần.

Các giáo hoàng của thế kỷ mười hai và mười ba cố gắng sống hài hòa với các nhà cầm quyền và các quốc gia để duy trì sự tự do của Tòa Thánh, cũng như để giữ thế quân bình giữa các quốc gia Âu Châu nhằm ngăn ngừa bất cứ nhà cai trị nào muốn kiểm soát Giáo Hội. Nhiều khi các giáo hoàng thất bại. Hoàng đế Frederick I (Barbarossa), là người đầu tiên của dòng họ Hohenstaufen cai trị Ðế Quốc Rôma Thánh Thiện, đã xâm chiếm Rôma năm 1159 và buộc Ðức Giáo Hoàng Alexander III phải bỏ trốn. Sau đó, Ðức Alexander liên minh với lực lượng Lombard ở miền bắc nước Ý, đánh bại quân của Frederick ở Leghano năm 1176, và sau đó làm hòa với Frederick. Sau khi hoà giải với Giáo Hội, Frederick dẫn đầu Thập Tự Chinh III sau khi Giêrusalem bị thất thủ vào năm 1187.

Ở Anh, Ðức Tổng Giám Mục Tôma Becket của Canterbury tranh đấu cho quyền lợi và sự tự do của Giáo Hội cho đến khi vua người Norman, là Henry II, buộc đức tổng phải trốn sang Pháp trong vòng sáu năm. Vì sự nổi tiếng của Ðức TGM Tôma, nhà vua đã cho phép ngài về nước năm 1170. Vì đức tổng tiếp tục ủng hộ đức giáo hoàng, Henry nổi cơn thịnh nộ và một vài vệ sĩ của ông đã giết đức tổng ngay trên tam cấp vương cung thánh đường Canterbury. Hành động hung ác này đã chấn động cả Âu Châu. Ðức giáo hoàng đã ra vạ tuyệt thông vua Henry, mà sau đó ông đã sám hối và rút lại lời chống đối Giáo Hội. Ðức Tôma Becket được tuyên xưng là thánh năm 1173 sau nhiều phép lạ xảy ra ở mộ của ngài.

2. Thập Tự Chinh. Những tranh chấp chính trị được các giáo hoàng coi là cần thiết để duy trì sự tự do của Giáo Hội khỏi sự lũng đoạn và thống trị của các nhà cầm quyền dân sự. Việc sử dụng quân đội và liên minh quân sự của các giáo hoàng được coi là chính đáng vì lý do tự vệ — bảo vệ đất đai của đức giáo hoàng và quyền cai trị Giáo Hội một cách tự do của đức giáo hoàng.

Tuy nhiên, các cuộc thập tự chinh là một trường hợp khác biệt. Thập tự chinh là các cuộc viễn chinh có tính cách quân sự do Giáo Hội tổ chức để giải thoát Ðất Thánh khỏi sự kiểm soát của người Hồi Giáo, và để bảo vệ đức tin Kitô Giáo cũng như bảo vệ người tín hữu đi hành hương. Thánh Augustine đã triển khai ý tưởng “cuộc chiến chính nghĩa,” và Giáo Hội tin rằng các cuộc thập tự chinh nằm trong khuôn khổ ấy. Thật vậy, những người tham dự thập tự quân được Giáo Hội tha thứ mọi hình phạt vì tội lỗi của họ. Ðức Urbanô II, người triệu tập Thập Tự Chinh I, đã ngăn cấm tất cả các động lực bất chính khi tham dự thập tự quân, tỉ như vì vinh dự hoặc lợi lộc thế tục.

Trên lý thuyết, các cuộc thập tự chinh có thể được coi là chính đáng, nhưng vì bản tính yếu đuối con người, hậu quả của các cuộc chiến này thường rất bi thảm. Thập Tự Chinh I là một thành công về quân sự, nhưng việc trục xuất các thượng phụ Hy Lạp ở Antiôkia đã làm sâu đậm thêm sự chia cắt giữa Giáo Hội Ðông Phương và Rôma, và đoàn quân thập tự ấy đã bừa bãi giết chết hàng trăm người vô tội khi họ tái chiếm Giêrusalem.

Mặc dù Thánh Bernard ở Clairvaux đã cổ động cho Thập Tự Chinh II vào năm 1146, nhưng đó là một thất bại về quân sự. Thập Tự Chinh III vào năm 1189 cốt để tái chiếm Giêrusalem khỏi tay người Thổ Nhĩ Kỳ Saladin, nhưng tất cả những gì đạt được chỉ là một thỏa ước đảm bảo sự an toàn cho Kitô Hữu khi đi hành hương ở Ðất Thánh. Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng các cuộc thập tự chinh đã quá xa rời ý định nguyên thủy, và tệ hại hơn nữa, sự tương giao giữa Kitô Giáo Ðông và Tây lại càng thêm suy yếu khi các nhà lãnh đạo các cuộc thập tự chinh sau này đã viễn chinh với các lý do thiếu thánh thiện.

3. Sự Canh Tân Giáo Hội và Lạc Giáo. Phong trào canh tân Giáo Hội Công Giáo được bắt đầu trong thế kỷ mười một và tiếp tục sang thế kỷ mười hai. Thánh Robert ở Molesme thành lập một đan viện ở Citeaux năm 1098, và đó là khởi đầu của Dòng Xitô. Một trong những đan sĩ trẻ tuổi của Xitô, tên Bernard, đã thiết lập một chi nhánh ở Clairvaux năm 1116 và làm đan viện trưởng cho đến khi từ trần năm 1153. Là một thầy giảng, một vị linh hướng, và thần học gia, Thánh Bernard ở Clairvaux là vị lãnh đạo canh tân đời sống tâm linh trong thế kỷ mười hai. Không bao lâu dòng Xitô có ảnh hưởng nhất trong Giáo Hội, vượt cả dòng Cluny, và sau cùng có đến sáu trăm đan viện được các tu sĩ Xitô thiết lập. Không những các đan viện được mọc lên như nấm mà cả các linh mục triều cũng được canh tân bởi các phong trào như Premonstratensian của Thánh Norbert, một người bạn của Thánh Bernard.

Sự canh tân quét sạch Giáo Hội, nhưng ảnh hưởng chính trị và sự sung túc ngày càng gia tăng của Giáo Hội Công Giáo, kể cả các đan viện, đưa đến sự xuất hiện của một số tổ chức mà họ tự cho rằng có đời sống căn bản hơn và trung thực hơn với phúc âm so với Giáo Hội. Người Cathar, là con cháu của người Manikê, xuất hiện từ phía nam nước Pháp và được gọi là Albigensian, vì họ thuộc miền Albi. Các tổ chức khác, tỉ như các môn đệ của Peter Waldes (phái Waldensian) và Humiliati ở Ý, khởi sự bằng cách thúc giục cải tổ và sống khó nghèo trong Giáo Hội, nhưng dần dà họ tách khỏi sự trung thành với Giáo Hội Công Giáo và bị kết án. Hầu hết các tổ chức này thấy chướng tai gai mắt vì sự giầu sang và thối nát trong Giáo Hội Công Giáo và họ muốn cải cách tận gốc, ngay tức thì mà không phải quy phục đức giáo hoàng và các giám mục. Tuy nhiên, cũng có một vài nhóm sống khắc khổ và nghiêm nhặt như các đan viện trước đây – Xitô, Carthusian, v.v. Sự canh tân xảy ra khắp nơi, và các tổ chức Công Giáo này chứng minh rằng Giáo Hội thực sự muốn canh tân và đã thể hiện được điều đó.

4. Thần Học và Giáo Dục. Nếp sống mới trong đan viện và các trường địa phận đem lại đời sống mới cho Giáo Hội qua nhiều phương cách. Kiểu kiến trúc vuông vức, thoáng rộng của Rôma đã nhường chỗ cho các thánh đường kiểu Gôtích với ngọn tháp cao chót vót. Hình ảnh Ðức Kitô là vua được thay thế bằng hình ảnh Ðức Kitô đau khổ trên thập giá, có lẽ phản ánh một đời sống cam go và nhiều bất trắc trong giai đoạn này. Sự đạo đức của người dân có tính cách riêng tư và cá biệt hơn, và việc sùng kính các thánh nhất là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa, bắt đầu triển nở. Việc thờ phượng ngày càng hướng về Thánh Thể, nhất là sự hiện diện thực sự của Ðức Kitô trong Mình Thánh mà tín điều này đã được nhiều công đồng xác nhận. Danh từ “biến thể” bắt đầu được sử dụng để diễn tả sự thay đổi của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Ðức Kitô trong hình thức bí tích. Tuy nhiên, Giáo Hội thời Trung Cổ chú trọng đến sự chiêm ngưỡng Mình Thánh hơn là rước Thánh Thể vào trong lòng. Thánh Lễ mang đặc tính của một vở tuồng để nhìn xem, một tấn bi kịch, thay vì một bữa tiệc chung của mọi người.

Thế kỷ mười hai cũng ghi dấu sự hình thành của thần học Kinh Viện. Lý trí được sử dụng để hiểu biết các mầu nhiệm về đức tin và thần học. Các thần học gia muốn tạo thành một tổng hợp bao gồm các tín điều trong Phúc Âm, các văn bản của các Giáo Phụ tiên khởi và triết học. Họ tin rằng, đức tin và lý lẽ không thể trái ngược nhau mà phải bổ sung cho nhau.

Ðứng đầu các thần học gia vĩ đại trong thế kỷ này là Thánh Anselm ở Canterbury (1033-1109), là cha đẻ của Học Thuyết Kinh Viện. Sau này xuất hiện một người tài giỏi, nhưng hơi kỳ dị là Peter Abelard, mà những sai lạc của ông đã bị bài bác bởi Thánh Bernard ở Clairvaux và Peter Lombard. Cuốn Luận Ðề Thần Học của Peter Lombard là một phương pháp được coi là tiêu chuẩn giáo khoa về thần học trong suốt thế kỷ mười ba. Cũng cần đề cập đến Gratian, một đan sĩ Camaldolese mà công trình của ngài là xếp đặt thứ tự các giáo huấn và quy luật của Giáo Hội Công Giáo, từ đó phát sinh khoa học mới về giáo luật trong thế kỷ mười hai.

Bất kể những đấu tranh chính trị của các giáo hoàng và kết quả lẫn lộn của các cuộc thập tự chinh, rõ ràng là Thiên Chúa đã làm việc trong thế kỷ mười hai. Ðó là con đường Người chuẩn bị cho thế kỷ tốt đẹp nhất về tâm linh, văn hóa, và tiến bộ tri thức trong lịch sử văn minh Tây Phương: thế kỷ mười ba.

Thế Kỷ Mười Ba

Thế kỷ mười ba là một bông hoa thời Trung Cổ và là cao điểm của Kitô Giáo. Trong hầu hết lãnh vực của đời sống, chúng ta đều thấy ảnh hưởng của Giáo Hội và sự tiến bộ về văn hóa và học thuật. Chắc chắn có những giai đoạn u ám, như cuộc thập tự chinh và Tòa Thẩm Tra được phát động để chống với lạc giáo. Nhưng ánh sáng của các thành quả trong thế kỷ này đã xua tan tăm tối và soi sáng cho Giáo Hội Công Giáo mãi cho đến ngày nay.

1. Các Giáo Hoàng và Công Ðồng. Thế kỷ mười ba xuất hiện các giáo hoàng có ảnh hưởng nhiều nhất và một số công đồng tốt đẹp nhất trong lịch sử Kitô Giáo. Ðức giáo hoàng tài giỏi nhất là Ðức Innôxentê III (1198-1216), là người đã xoay sở để mọi nhà cầm quyền thế tục phải phục tùng Giáo Hội qua sự thuyết phục hoặc sử dụng vạ tuyệt thông hay khai trừ. Tuy nhiên quyền lực trần thế không phải là mục đích của Ðức Innôxentê; ngài muốn hoàn toàn kiểm soát Giáo Hội để có thể cải tổ. Vào năm 1215, ngài triệu tập Công Ðồng Latêranô IV, quy tụ trên bốn trăm giám mục và tám trăm viện phụ, tu viện trưởng cũng như đại diện các nhà cầm quyền. Công đồng này đã tán thành các nghị định cải tổ mà các quyết nghị ấy đã ảnh hưởng đến Giáo Hội trong nhiều thế kỷ, tỉ như nhiệm vụ của người Công Giáo là phải đi xưng tội và rước lễ mỗi năm ít là một lần trong mùa Phục Sinh. Công đồng này tán thành việc sử dụng danh từ biến thể và cũng có những xử trí để ngăn chặn lạc giáo, tỉ như Tòa Thẩm Tra.

Ðức Innôxentê III, người đầu tiên dùng danh xưng Ðại Diện Ðức Kitô, đã chứng tỏ sự khôn ngoan của ngài trong cách giải quyết đối với các tu sĩ dòng khất thực hay Phong Trào Khó Nghèo. Nhiều Kitô Hữu cảm thấy chướng tai gai mắt vì của cải đang đổ về Tây Phương như một kết quả của cuộc thập tự chinh và vì xã hội ổn định. Các Kitô Hữu này muốn sống cuộc đời đơn giản khó nghèo trong phúc âm để noi gương Ðức Giêsu Kitô. Ðức Innôxentê nhận thấy cần phải có tinh thần này trong sự cải tổ Giáo Hội, do đó ngài tán thành các dòng tu mới của những người sống khó nghèo, còn được gọi là Tu Sĩ Khất Thực, được sáng lập bởi Thánh Phanxicô Assisi (1209) vàThánh Ðaminh Guzman (1215). Ðức Innôxentê III còn đem trở về với Giáo Hội Công Giáo các tổ chức trước đây lìa bỏ Giáo Hội, tỉ như Hội Người Nghèo ở Lyons, do Durand ở Huesca lãnh đạo, và Hội Người Công Giáo Khó Nghèo. Một số cho rằng Ðức Innôxentê III là một chính trị gia hơn là một vị thánh, nhưng không ai có thể từ chối rằng ngài đã thành công hơn bất cứ vị giáo hoàng nào thời Trung Cổ trong việc kiên cường và cải tổ Giáo Hội.

Vì đây là lịch sử cô đọng nên chúng ta không thể kể hết tất cả các giáo hoàng xuất sắc của thế kỷ, nhưng cần đề cập đến hai công đồng đã tiếp tục việc cải tổ Giáo Hội: Công Ðồng Lyons I (1245) và II (1274). Cả hai công đồng được tổ chức ở Pháp vì áp lực chính trị trên các giáo hoàng ở Rôma. Nước Pháp trung thành với đức giáo hoàng, và vị vua thánh thiện của Pháp, Vua Louis IX (1214-70, sau này được phong thánh), đã hỗ trợ và bảo vệ Giáo Hội. Vị giáo hoàng sau cùng của thế kỷ mười ba, Ðức Boniface VIII (1294-1303), là một thí dụ điển hình về các thành quả của các giáo hoàng thời bấy giờ. Ngài tiếp tục đả kích bất cứ sự can thiệp nào của chính phủ vào nội bộ Giáo Hội, và trong chỉ dụ nổi tiếng của ngài, Unam Sanctam, ngài tuyên bố thẩm quyền tuyệt đối của đức giáo hoàng trên Giáo Hội và trật tự xã hội Kitô Giáo. Năm Thánh 1300 do ngài công bố rất thành công, quy tụ trên một triệu người hành hương đến Rôma. Thẩm quyền của đức giáo hoàng đạt đến tuyệt đỉnh trong thời Ðức Innôxentê III và Boniface VIII.

2. Các Cuộc Thập Tự Chinh và Tòa Thẩm Tra. Khía cạnh u ám của thế kỷ này xảy ra là vì Giáo Hội cố gắng giữ lấy lãnh thổ của Kitô Giáo ở Ðông Phương và dùng quyền lực để tiêu diệt các lạc giáo. Cuộc Thập Tự Chinh IV được Ðức Innôxentê III triệu tập năm 1202, nhưng dù không có phép của ngài, thập tự quân đã dừng chân ở Constantinople để tấn phong một hoàng đế có lợi cho Tây Phương. Binh lính không ngừng bóc lột và tàn phá thành phố mỹ miều này vào năm 1204. Một nhà bình luận viết, “Ngay cả người Hồi Giáo còn có lòng từ bi hơn.” Sự kiện này đã tạo nên nỗi cay đắng lớn lao trong tâm hồn Kitô Hữu Ðông Phương đối với Giáo Hội Công Giáo, mà cho đến nay vẫn chưa thể hoàn toàn hàn gắn, hơn nữa nó còn làm mất chính nghĩa của toàn thể phong trào thập tự chinh. Ðức Innôxentê III rúng động vì biến cố này, nhưng trong Công Ðồng Latêranô IV, ngài đã triệu tập một cuộc thập tự chinh khác để khôi phục thành phố Giêrusalem. Thập Tự Chinh V (1218-21) tương đối thành công nhưng thất bại trong việc tái chiếm Giêrusalem. Qua phương cách ngoại giao, Hoàng Ðế Frederick II xoay sở để chiếm lại Giêrusalem trong cuộc Thập Tự Chinh VI (1228-29), nhưng chỉ kéo dài được mười lăm năm. Năm 1291, Ðất Thánh lọt khỏi tầm kiểm soát của Tây Phương với sự bại trận của các lực lượng Kitô Giáo ở Acre. Bài học của các cuộc thập tự chinh trong việc tái chiếm Ðất Thánh vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Vì Ðức Kitô, đừng bao giờ Giáo Hội Công Giáo tuyên chiến để tái chiếm lãnh thổ, ngay cả Ðất Thánh; cũng không nên cho phép xảy ra một cuộc chiến giữa các quốc gia vì lý do này.

Trong thế kỷ mười ba, Giáo Hội Công Giáo còn phải tiến hành một mặt trận khác quan trọng hơn. Vì sự giầu sang và thối nát trong Giáo Hội, một vài tổ chức như nhóm Cathar và Waldensian đang lôi cuốn nhiều người Công Giáo Âu Châu, và các nhóm này từ chối nhân tính của Ðức Kitô, tẩy chay các bí tích, và khước từ quyền bính thiêng liêng của các linh mục và của Giáo Hội. Ðể đối phó với vấn đề này, trong thế kỷ mười hai, Giáo Hội Công Giáo thiết lập một thủ tục pháp lý để thẩm vấn những người bị tình nghi là lạc giáo. Tiến trình pháp lý và tòa án này được nổi tiếng dưới tên Tòa Thẩm Tra (Inquisition).

Thật khó để chúng ta hiểu rằng trong thời ấy người ta không tin có sự tự do tôn giáo hay sự khoan dung. Một người sống trong đế quốc hay quốc gia Công Giáo thì được cho là phải tin tưởng vào giáo huấn Công Giáo. Nếu họ không tin, họ được coi là nguy hiểm cho xã hội và linh hồn của họ bị nguy cơ diệt vong. Giáo Hội Công Giáo coi Tòa Thẩm Tra là một cách để duy trì sự tinh tuyền của đức tin Công Giáo trong một quốc gia Công Giáo, và để gìn giữ linh hồn những người lạc giáo khỏi bị tiêu vong qua sự ăn năn sám hối và việc chấp nhận đức tin chân chính. Khoảng giữa thế kỷ mười ba, ngay cả việc tra tấn của nhà cầm quyền thế tục cũng được Giáo Hội cho là đúng, vì trên nguyên tắc, thà bị đau khổ phần xác ở đời này còn hơn bị đau khổ trong lửa hoả ngục đời đời. (Nên để ý rằng, luật La Mã, được duy trì ở Tây Phương bởi hoàng đế Justinian, cho sử dụng sự tra tấn để buộc phải thú tội). Tuy nhiên, trái với điều tin tưởng thông thường, mục đích của Toà Thẩm Tra là để tiêu diệt tận gốc nạn lạc giáo qua sự hoán cải những người lầm lạc trở về với đức tin chân chính. Cũng cần lưu ý ở đây, khi Ðức Grêgôriô IX cho thiết lập các tòa thẩm tra cách vĩnh viễn vào năm 1233, ngài đã chọn các người từ dòng Khất Thực, nhất là tu sĩ dòng Ða Minh, để hoán cải dân chúng qua Tòa Thẩm Tra.

3. Phong Trào Khó Nghèo và Các Dòng Khất Thực. Thánh Phanxicô Assisi sinh năm 1181, con của một thương gia buôn vải của thành phố miền trung nước Ý này. Khi lớn lên, Phanxicô nổi tiếng là thích liên hoan và vui nhộn. Ðược khích động bởi hình ảnh hào hùng của tinh thần hiệp sĩ, Phanxicô tham dự cuộc chiến. Sau khi bị thương và bị bắt làm tù binh, Phanxicô trở về Assisi dưỡng bệnh. Cuộc đời ngài bắt đầu thay đổi. Một ngày kia, khi cầu nguyện trong nhà thờ San Damiano, ngài nghe Ðức Kitô trên thánh giá kêu gọi ngài “đi dựng lại Giáo Hội của Ta, đang đổ nát.” Lúc đầu, Phanxicô tưởng Chúa gọi ngài sửa chữa các ngôi nhà thờ cũ kỹ, nhưng sau đó ngài hiểu Chúa muốn xây dựng lại Giáo Hội qua lối sống phúc âm thật nghèo khó, để noi gương Ðức Kitô nghèo hèn. Vào năm 1209, Phanxicô và mười một đồng bạn lên Rôma để xin Ðức Innôxentê II chấp thuận cho quy luật đơn giản của họ, mà trong đó chỉ có một vài giòng chữ trích từ Phúc Âm. Lúc đầu Ðức Innôxentê do dự, nhưng ngài mơ thấy Phanxicô đưa tay chống đỡ các cột trụ của Giáo Hội Rôma. Kết quả là Ðức Innôxentê tán thành quy luật của Phanxicô và cho phép Phanxicô và các môn đệ được phép rao giảng bất cứ đâu mà đức giám mục địa phương đồng ý. Thánh Clara, một người bạn của Thánh Phanxicô, đã sáng lập dòng “Clara nghèo hèn,” một dòng nữ Phanxicô, và cũng đã phát triển mạnh.

Ðó là khởi đầu của cuộc canh tân vĩ đại nhất lịch sử Giáo Hội Công Giáo. Nhóm tu sĩ Phanxicô ít ỏi ấy đã phát triển thành một dòng tu lớn nhất và có ảnh hưởng nhất thời Trung Cổ, vượt xa các đan viện về số lượng cũng như sự ảnh hưởng. Ðời sống nhân chứng của các tu sĩ dòng Phanxicô thật cần thiết trong một thời đại mà Giáo Hội ngày càng giàu sang và nhiều giáo sĩ thật hư hỏng. Tuy nhiên, Phanxicô không nhìn đến các khiếm khuyết của Giáo Hội hay của giáo sĩ, mà ngài vẫn hết lòng trung thành và yêu quý Giáo Hội. Mặc dù ngài rất khó nghèo và khắc khổ, Thánh Phanxicô luôn luôn yêu đời, vui thích trong các tạo vật của Thiên Chúa và đặc biệt sùng kính nhân tính của Ðức Giêsu. Ngài sáng chế ra hang đá Giáng Sinh, và không như những người lạc giáo thời ấy, ngài đặc biệt yêu quý bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Khi gần chết, Thiên Chúa đã ban cho ngài năm vết thương của Ðức Kitô trên thân thể — là một món quà thích hợp cho những ai yêu mến Ðức Kitô bị đóng đinh. Ngài từ trần năm 1226, và chỉ hai năm sau, ngài đã được phong thánh.

Thánh Ðaminh Guzman là người Tây Ban Nha sinh năm 1170. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài lưu tâm đến việc hoán cải những người bị ảnh hưởng của lạc giáo Albigensian (người Cathar). Ngài nhận thấy rằng, người ta chỉ trở lại đạo qua sự rao giảng hùng hồn nhờ vào sự huấn luyện kỹ càng cùng với một đời sống chứng nhân đơn sơ và nghèo hèn. Vào năm 1216, các môn đệ của ngài được Ðức Giáo Hoàng Honorius III chấp nhận là Dòng Thuyết Giáo, sau khi họ du nhập số quy luật của Thánh Augustine. Thánh Ðaminh rất yêu mến Thiên Chúa. Ngài thường nhỏ lệ khi rao giảng hay khi dâng Thánh Lễ, và ngài kêu gọi các môn đệ chỉ nói về Chúa và với Chúa. Ngài từ trần năm 1221 và được phong thánh năm 1234. Cũng giống như Dòng Phanxicô, Dòng Ðaminh trở nên một nguồn canh tân lớn lao, hoán cải người lạc giáo, và chỉnh đốn các hiểu biết sai lầm trong thế kỷ mười ba. Các dòng tu khác, tỉ như dòng Camêlô và dòng Augustine, cũng đã thôi thúc Giáo Hội trên con đường canh tân của thế kỷ này.

4. Thần Học, Sự Hiểu Biết và Văn Hóa Mới. Thế kỷ mười ba cũng là tột đỉnh của tư duy và văn hóa thời Trung Cổ. Ðiều này được khởi sự từ thế kỷ mười một với việc thành lập các trường của địa phận và của thành phố. Vào khoảng 1170 một trung tâm mới cao hơn về học thuật xuất hiện – trường đại học. Lúc đầu, đại học được coi là tổ chức hay hiệp hội của các học giả, mà trước tiên thu hút hàng giáo sĩ và được Giáo Hội hỗ trợ về tài chánh. Hai đại học lớn được thành lập ở Balê (chuyên về thần học) và ở Bologna (về luật), nhưng sau đó không lâu là các trường Oxford (1200), Cambridge (1209), Salamanca (1220), Naples (1224), và các trường khác. Y học, luật học và thần học là các môn chính yếu, và thần học được coi là nữ hoàng của kiến thức. Phương cách của thần học chủ yếu là nghiền ngẫm (lectio) các sách thiêng liêng, nhưng với công trình chuyển dịch các văn bản của triết gia Hy Lạp Aristotle từ tiếng Ả Rập sang tiếng Latinh, một phương pháp mới về lý luận để học hỏi thần học được khai sinh. Các thần học gia muốn chứng minh rằng đức tin Kitô Giáo thì hợp lý và sự hiểu biết tự nhiên rất thích hợp với quan điểm Kitô Giáo về vũ trụ và thực thể, và ngay cả hỗ trợ cho đức tin Kitô Giáo.

Ba vị thần học sáng giá của thế kỷ xuất thân từ các dòng Khất Thực: một tu sĩ dòng Phanxicô, Thánh Bônaventura (1217-74), và hai tu sĩ dòng Ða Minh, Thánh Albert Cả(1200-80) và Thánh Tôma Aquinas (1225-74). Thánh Bônaventura áp dụng truyền thống lâu đời để tìm hiểu thần học bằng phương cách bí nhiệm, trong khi dùng lý lẽ để hỗ trợ cho sự xác thực của truyền thống và đức tin. Thánh Albert Cả là một trong những người đầu tiên cực lực hỗ trợ tư duy của Aristotle, mà trước đây đã bị Rôma cấm chỉ trong các trường đại học vì có nguồn gốc ngoại giáo. Người học trò nổi tiếng của Thánh Albert, là Tôma Aquinas, hăng hái bảo vệ giá trị của Aristotle và hình thành một hệ tư tưởng bao gồm Phúc Âm, các Giáo Phụ, và lý luận của Aristotle trong một hệ thống hiểu biết vĩ đại, tổng hợp toàn thể mặc khải Kitô Giáo qua đức tin được khai sáng bởi lý lẽ. Kiệt tác của Thánh Tôma là cuốn Tổng Luận Thần Học(Summa Theologica, 1266-74), được coi là cực điểm của thiên tài và thật sáng sủa. Trái với điều tin tưởng thông thường, Thánh Tôma không bao giờ tách rời đức tin với lý lẽ. Lý lẽ giúp con người hiểu biết cách thâm sâu các chân lý đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải. Tuy nhiên, Thánh Tôma Aquinas không phải là người nổi tiếng trong thời ấy. Thần học gia và triết gia John Duns Scotus (1266-1308), một tu sĩ Phanxicô người Tô Cách Lan, có đông các môn đệ hơn. Ngài bất đồng với Thánh Tôma về vài điểm quan trọng, nhưng đồng ý với thánh nhân về tính cách nhận thức, hoặc hiểu biết được của mọi sự.

Các trường đại học không chỉ là bằng chứng cho sự tiến bộ của văn minh Tây Phương mà còn có các đại văn hào, tỉ như Dante Alighieri (1265-1321). Tác phẩmDivine Comedy (Hài Kịch Thần Thánh) của Dante, một quan điểm văn học về hoả ngục, luyện ngục và thiên đàng, là tuyệt tác văn chương của mọi thời đại. Roger Bacon (1214-92), một tu sĩ dòng Phanxicô, là người tiên phong trong lãnh vực khoa học thực nghiệm. Các thánh đường kiểu Gôtích vút cao lên trời, và các nghệ nhân sáng tác nhiều tác phẩm vĩ đại. Thế kỷ mười ba quả thực là cao điểm của đời sống Giáo Hội và văn minh Tây Phương thời Trung Cổ.

III. Cuối Thời Trung Cổ, Phong Trào Cải Cách và Phản Cải Cách (1300-1650)

Cuối Thời Trung Cổ (1300-1500)

Thế kỷ mười ba là thế kỷ đầy kết quả cho Kitô Giáo và cho Giáo Hội cũng như các giáo hoàng. Tuy nhiên, giai đoạn từ 1300 đến 1500 là thời kỳ suy thoái. Giai đoạn nhiều khó khăn này còn được ghi dấu bằng trận dịch hạch Tử Thần Ðen mà nó đã càn quét Âu Châu từ năm 1348 và đã giết chết một phần ba dân số Âu Châu. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn hoạt động trong Giáo Hội Công Giáo và trong xã hội giữa biết bao thử thách.

1. Giáo Triều Avignon. Triều đại giáo hoàng sôi nổi của Ðức Boniface VIII (1294-1303) được tiếp theo bằng một giai đoạn trên bảy mươi năm, 1306-76, mà trong thời gian đó các giáo hoàng cư ngụ ở Avignon, nước Pháp thay vì ở Rôma. Ðức Clêmentê V (làm giáo hoàng từ 1305 đến 1314) di chuyển đến Avignon để tránh áp lực chính trị của Ý, và của các hoàng tộc Rôma thường gây hấn. Vua Philip của Pháp hứa che chở và không phá rối để đổi lấy một vài ảnh hưởng trong chính sách của đức giáo hoàng. Mặc dù các giáo hoàng ở Avignon vẫn giữ vai trò độc đáo của các ngài là vị chủ chăn của toàn thể dân Chúa, nhưng tất cả thế giới còn lại đều nghi ngờ rằng các giáo hoàng này chỉ lên tiếng nói vì lợi ích cho nước Pháp. Thật vậy, khi tám giáo hoàng trong thời kỳ này đều là người Pháp thì sự kiện ấy chỉ như thêm dầu vào ngọn lửa hồ nghi.

Giáo triều Avignon đã bị phê phán bởi các thánh và các thi hào, như Petrarch, và còn bởi Thánh Bridget ở Thụy Ðiển (1303-73) và Thánh Catarina ở Siena (1347-80). Các ngài là nữ ngôn sứ mà Thiên Chúa đã dùng để thuyết phục đức giáo hoàng phải trở về Rôma. Thánh Bridget là một người vợ và là mẹ của tám người con; những thị kiến ngài nhận được từ Thiên Chúa đã thôi thúc các giáo hoàng ở Avignon phải thay đổi lối sống xa hoa và lo cho Giáo Hội. Thánh Catarina ở Siena hứa giữ mình đồng trinh ngay khi còn nhỏ và đã gia nhập dòng Ba Ða Minh. Ngài tận tụy phục vụ người nghèo cho đến khi Thiên Chúa gọi ngài làm ngôn sứ. Ngài đã thuyết phục Ðức Grêgôriô XI trở về Rôma năm 1376 và ngài là cố vấn cho đức giáo hoàng kế vị, là Ðức Urbanô VI. Mới đây, Thánh Catarina được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh và cùng với Thánh Phanxicô Assisi, ngài là quan thầy của nước Ý.

2. “Ðại Phân Ly” Giữa Các Giáo Hoàng (1378-1417). Sau khi từ Avignon trở về Rôma không lâu, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XI từ trần năm 1378. Cái chết của ngài đã đem lại sự khủng hoảng lớn lao cho Giáo Hội. Các hồng y tụ họp ở Rôma, và dưới áp lực của người Rôma, các ngài đã khôn ngoan tuyển chọn một hồng y người Ý làm giáo hoàng, là Ðức Urbanô VI. Nhưng trước sự kinh ngạc của họ, Ðức Urbanô đã trừng trị các hồng y, luôn lải nhải đòi hỏi họ cải tổ và ngay cả tra tấn hồng y nào bất đồng quan điểm. Các hồng y người Pháp, sau khi phủ nhận giá trị việc tuyển chọn Ðức Urbanô, đã bỏ về Rôma và chọn một hồng y người Pháp là “ngụy giáo hoàng,” Clêmentê VII. Sự kiện này bắt đầu một trang sử buồn thảm của Giáo Hội Công Giáo. Ðó là thời gian có đến hai, và sau này ba người tự xưng là giáo hoàng chính cống, mỗi người được sự hỗ trợ của một số quốc gia và đế quốc khác nhau.

Vấn đề được đặt ra là làm sao giải quyết khó khăn này. Không một giáo hoàng nào chịu từ chức, và các hồng y, giám mục cũng chia rẽ trong sự trung thành của họ. Một số thần học gia, tỉ như Jean Gerson, là hiệu trưởng Ðại Học Ba Lê, trước đây chủ trương rằng thẩm quyền của một công đồng cao hơn thẩm quyền của đức giáo hoàng; và ngài đã triệu tập một công đồng để giải quyết vấn đề. Sau cùng Công Ðồng Constance (1414-18) đã truất phế hai giáo hoàng, khuyến khích vị thứ ba từ chức, và tuyển chọn một giáo hoàng mới, Ðức Martin V (1417), là người được toàn thể Giáo Hội công nhận. Cuộc đại phân ly chấm dứt, nhưng mãi cho đến khi uy tín của đức giáo hoàng được khôi phục thì sự phân ly mới thực sự kết thúc. Hậu quả của giáo triều Avignon và sự phân ly là không bao giờ chúng ta thấy được vị giáo hoàng thời Trung Cổ có uy thế như Ðức Innôxentê III hoặc Boniface VIII. Nhiều Kitô Hữu bắt đầu coi công đồng có uy thế hơn đức giáo hoàng, nhưng điều này không đúng. Công Ðồng Constance là một ngoại lệ, chứ không phải là quy tắc, được đưa ra như một phản ứng trước tình trạng nguy kịch của Giáo Hội. Sau công đồng này, các giáo hoàng tiếp tục xác nhận quyền bính và vai trò của các ngài trong Giáo Hội như trước đây.

3. Những Thử Thách của Giáo Hội. Các khó khăn hiển nhiên có liên hệ đến vấn đề giáo hoàng đã khiến một số người Công Giáo đặt vấn đề và có khi từ chối thẩm quyền của Giáo Hội. Một phê bình gia thức thời là John Wyclif (1330-84), một học giả của Oxford đã tấn công học thuyết về sự biến thể của Mình Thánh và các tín điều khác. Mặc dù ông không nghiên cứu về Kinh Thánh, bản dịch của ông là một trong những công trình nổi tiếng. Tư tưởng của Wyclif ảnh hưởng đến nhà cải cách Tiệp Khắc, John Hus (1369-1415). Hus là một linh mục Công Giáo bị vạ tuyệt thông năm 1412 vì từ chối giáo huấn Công Giáo về các bí tích và thẩm quyền của đức giáo hoàng. Vì ông tấn công Giáo Hội Công Giáo, Công Ðồng Constance đã ra lệnh thiêu sống ông vào năm 1445 vì tội lạc giáo.

Sự chỉ trích Giáo Hội và việc nổi loạn chống với giới thẩm quyền ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính cách trầm trọng. Ngay cả một chi nhánh của dòng Phanxicô mà họ tự cho là Linh Ðạo Phanxicô đã tách khỏi Giáo Hội Công Giáo, vì họ không thể chấp nhận quyền bính của Giáo Hội khi Tòa Thánh giảm bớt tính cách khắt khe của quy luật Thánh Phanxicô về vấn đề sở hữu sách vở hay làm chủ tài sản. Họ tiên đoán Giáo Hội đã đến lúc tận cùng.

Một thử thách khác của Giáo Hội vào cuối thời Trung Cổ là sự suy thoái của thần học Kinh Viện mà trước đây đã từng đạt đến cao điểm trong thời Thánh Tôma Aquinas và John Duns Scotus. Mặc dù trong thời gian này cũng có các thần học gia sáng giá và thánh thiện, tỉ như Nicholas ở Cusa (1401-64) là người đã viết cuốn The Vision of God, nhưng nói chung thần học Tây Phương đang trên đà suy thoái. Các thần học gia không còn nghiên cứu Kinh Thánh và các Giáo Phụ, nhưng đã dành thời giờ để xem xét và bình luận về các nhận định của nhau. Nhiều người còn tham dự vào các cuộc tranh luận vô bổ — tỉ như “bao nhiêu thiên thần có thể nhảy múa trên đầu một cây kim?” — các tranh luận ấy kích thích trí tuệ nhưng làm nguội lạnh tâm hồn. Ngay cả xuất hiện một phái triết thần mới gọi là Nominalism (thuyết duy danh), do William ở Ockham (1280-1349) khởi xướng, muốn tách biệt các lãnh vực của đức tin và lý lẽ thay vì coi chúng hỗ tương nhau như Thánh Tôma Aquinas và các học giả Kinh Viện lỗi lạc khác từng chủ trương.

4. Thức Tỉnh Tâm Linh. Khi thần học và triết học ngày càng khô khan và tách khỏi đời sống con người thì lại có khuynh hướng nhìn lại tâm hồn để tìm cách thức tỉnh tâm linh. Nổi tiếng vào cuối thời Trung Cổ là các nhà thần nghiệm Kitô Giáo, họ tìm cách đến với Thiên Chúa qua tâm hồn hơn là trí tuệ. Meister Eckhart (1260-1327), một tu sĩ Ðaminh người Ðức, là một trong các vị thần nghiệm đầu tiên và có ảnh hưởng nhất, tuy nhiên một số học thuyết của ông bị giới chức quyền Giáo Hội nghi ngờ. Một năm trước khi chết, năm 1326, Eckhart bị kết tội lạc giáo.

John Tauler (1300-61) và Henry Suo (1245-1366) cả hai đều là linh mục dòng Ðaminh và là môn đệ của Eckhart. Tauler chủ trương đời sống chúng ta phải phản ánh đời sống Ba Ngôi. Cuốn Sách Nhỏ Về Sự Khôn Ngoan Vĩnh Cửu của Suo được coi là sản phẩm tinh tuý nhất của khoa thần nghiệm Ðức. Văn sĩ thần nghiệm John van Ruysbroeck (1293-1381) được một số người coi là vị thánh vĩ đại người Flemin. Anh Quốc cũng có thể tự hào về nhiều nhà thần nghiệm: Julian ở Norwich (1342-1416) viết cuốn Mặc Khải của Tình Yêu Thiên Chúa; cuốn Bậc Tuyệt Hảo của Walter Hilton (c. 1395) là sự trình bầy rõ ràng nhất và quân bình nhất của đời sống nội tâm vào cuối thời Trung Cổ.

Một phản ứng khác đối với sự nguội lạnh của thần học thời bấy giờ là phong tràoDevotio Moderna, loại đạo đức mới, xuất hiện từ cuối thế kỷ mười bốn và lan sang thế kỷ mười lăm. Các sáng tác đạo đức thời ấy tránh tranh luận thần học nhưng lại không phải là loại thần nghiệm. Ðó là một phương cách thực tiễn suy niệm về cuộc đời Chúa Giêsu theo một phương cách có thứ tự. Cuốn Gương Ðức Kitô của Thomas à Kempis là một tác phẩm kinh điển của phái này. Gerard Groote (1340-84) là một trong những người hết sức cổ võ phong trào đạo đức mới và khích lệ thành lập một tu hội đời được gọi là Anh Em của Ðời Sống Chung, và dòng Kinh Sĩ Thánh Augustine ở Windesheim. Một số dòng tu khác đã canh tân vào thời kỳ này, tỉ như các tu sĩ Phanxicô Nghiêm Thủ dưới sự dẫn dắt của Thánh Bernadine ở Siena (c. 1444) và Thánh Gioan ở Capistrano (c. 1456). Một số dòng của các đan sĩ Biển Ðức và Kinh Sĩ Augustine cũng canh tân, kể cả dòng mà Martin Luther gia nhập sau này.

Trong Kitô Giáo Ðông Phương, một phương pháp cầu nguyện được gọi làhesychasm, hay cầu nguyện bằng con tim, trở nên phổ thông trong thế kỷ mười ba và mười bốn. Gregory Palamas (1296-1359), một vị thần nghiệm vĩ đại của Giáo Hội Ðông Phương, và các người khác đã cổ võ hình thức cầu nguyện này gồm việc lập đi lập lại cách liên tục tên Ðức Giêsu (hoặc một lời nguyện ngắn như “Lạy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót tôi”). Những lời nguyện ấy nhịp nhàng với hơi thở. Mục đích là cầu nguyện liên lỉ, luôn luôn nhắm đến Thiên Chúa. Một hợp tuyển văn bản của các Giáo Phụ Ðông Phương thường được gọi là Philokalia làm nền tảng cho sự tu đức này.

Trong các vị thần nghiệm và thụ khải của cuối thời Trung Cổ có Thánh Jeanne d’Arc(1412-31). Ngay từ khi mười ba tuổi, thánh nữ đã được nghe tiếng các thiên thần và các thánh mà các vị ấy cho biết sứ vụ của thánh nữ là giúp vua Charles VII nước Pháp thoát khỏi sự kiềm tỏa của Anh. Tin rằng thị kiến của Jeanne d’Arc là có thật, nhà vua đã giao cho thánh nữ một đạo quân để tái chiếm các thành luỹ của Pháp. Trong một cuộc chiến, thánh nữ bị bắt và bị giáo quyền Anh kết án là lạc giáo và bị thiêu sống. Hai mươi lăm năm sau, thánh nữ được minh oan, và năm 1920, ngài được tuyên xưng là thánh. Thánh Jeanne d’Arc quả thật là vị thánh đặc biệt và ngoại lệ trong thời kỳ xáo trộn.

5. Những Nguyên Do Căn Bản Cuộc Cải Cách Tin Lành. Có những bùng nổ thức tỉnh tâm linh vào cuối thời Trung Cổ, nhưng thảm kịch dẫn đến cuộc Cải Cách là sự cải tổ và canh tân tâm linh ấy không ảnh hưởng gì đến dòng sinh lực của Giáo Hội Công Giáo. Từ các giáo hoàng cho đến thường dân đều có những hành động cản trở sự canh tân. Các giáo hoàng phải đương đầu với sự phát sinh của chủ nghĩa dân tộc và phải đối phó với các thái tử, là những người chỉ cho phép Giáo Hội địa phương được thi hành sự cải tổ với một giá nào đó. Các giáo hoàng buộc phải ký kết các thoả ước với các quốc gia, và các nhà cầm quyền đạt được nhiều lợi nhuận trong việc thao túng Giáo Hội. Khi tình hình tài chánh của đức giáo hoàng ngày càng tệ hại, họ đã nghĩ ra các phương cách gia tăng lợi tức cho đức giáo hoàng và đã đưa đến các hậu quả thật xấu xa. Trong thời kỳ này, nhiều nhà cầm quyền thế tục cũng trở nên giám mục hay tu viện trưởng nhằm kiểm soát Giáo Hội và kiếm lợi tức. Các giáo hoàng tìm cách lấy lại tài chánh từ các nhà cầm quyền thế tục bằng cách gia tăng tiền thuế nộp cho đức giáo hoàng về các chức vụ trong giáo hội. Nếu các thái tử muốn kiểm soát Giáo Hội thì ít nhất họ phải trả một giá nào đó. Thói buôn thần bán thánh này luôn luôn bị kết án là trái với luân lý. Một số nhà cầm quyền dân sự mua đến hai ba chức vụ trong Giáo Hội (pluralism) và họ không màng gì đến việc chăm sóc giáo dân nhưng họ thuê mướn người khác làm công việc này (absenteeism). Do đó, các giám mục trong Giáo Hội thường là những người giầu có hoặc thuộc giới quý tộc, họ không lo lắng gì đến Giáo Hội nhưng dùng chức vụ này để được lợi lộc cho mình. Khi cần tài chánh, họ gia tăng lệ phí các trung tâm hành hương hoặc bán các ân xá. Ân xá được Giáo Hội ban phát như một đảm bảo cho người tín hữu khỏi phải chịu hậu quả của tội lỗi (tỉ như, hình phạt nơi luyện tội) sau khi chết. Lẽ ra ân xá được ban phát như để nhìn nhận đời sống tốt lành của người tín hữu, nhưng vào cuối thời Trung Cổ, ân xá được buôn bán như một món hàng. Tetzel là một tu sĩ dòng Ða Minh chuyên môn bán ân xá đến độ Luther phải nổi nóng và chống đối Giáo Hội. Tetzel thường rêu rao rằng: “Khi đồng tiền leng keng rơi vào kho bạc thì một linh hồn lại dzọt vào thiên đàng.”

Hàng linh mục và phó tế của Giáo Hội Công Giáo cũng trở nên tồi tệ vì thiếu giáo dục và thối nát khắp nơi. Nhiều tu sĩ nghèo và hủ hóa đã ăn ở với các phụ nữ bất kể luật độc thân của Giáo Hội. Ngay cả các dòng Khất Thực cũng mất nhiệt huyết và trở nên chủ đề cho người đời châm biếm, các tu sĩ này bị mỉa mai là đối thủ của phường trộm cướp, và là các người ăn mày có chính nghĩa khi họ chỉ thích xin tiền chứ không muốn xin thực phẩm.

Giáo dân Công Giáo cũng không màng đến việc canh tân trong Giáo Hội. Ðời sống đạo đức của họ là việc sùng kính bề ngoài đối với các thánh và Ðức Maria, thích đi hành hương để được ân xá mà không cần hiểu biết chân lý căn bản của đức tin Kitô Giáo. Nếu các giám mục và linh mục lười biếng trong việc giảng dạy thì không thể đổ lỗi cho người giáo dân là thiếu hiểu biết.

Làm thế nào Giáo Hội Công Giáo có thể cải tổ trong một tình trạng đáng buồn như vậy? Các giáo hoàng thì bận tâm với vấn đề chính trị, và hầu hết các giáo hoàng từ giữa thế kỷ mười lăm trở đi, đều lưu tâm đến việc hỗ trợ phong trào Phục Hưng, là một làn sóng văn hóa và học thuật đang càn quét Âu Châu. Trong một khía cạnh nào đó, đây là điều rất tốt. Các giáo hoàng thời Phục Hưng muốn chứng tỏ rằng Giáo Hội luôn hậu thuẫn cho sự học hỏi, nghệ thuật, âm nhạc, và văn chương. Ðức Giáo Hoàng Julius II đặt viên đá đầu tiên cho Ðền Thánh Phêrô ở Rôma và thuê Bernini, Raphael, và Michaelangelo — những nghệ nhân vĩ đại của thế giới thời ấy — cung cấp các tác phẩm điêu khắc, hội họa, kiến trúc cho thánh đường. Tuy nhiên, phí tổn lớn lao này đã khiến các giáo hoàng không còn lưu tâm đến tình hình tâm linh kiệt quệ của Giáo Hội.

Một vài giáo sĩ và thái tử thúc giục các giáo hoàng tổ chức công đồng để canh tân Giáo Hội. Sau nhiều lần do dự, vì sợ rằng công đồng sẽ cướp quyền của đức giáo hoàng hoặc sợ bị nhà cầm quyền dân sự kiểm soát, sau cùng Ðức Giáo Hoàng Julius II đã triệu tập Công Ðồng Latêranô V ở Rôma năm 1512. Công đồng chấm dứt năm 1517, dưới thời Ðức Giáo Hoàng Lêô X, ngay khi sự Cải Cách Tin Lành bắt đầu nhen nhúm. Công đồng đã phê chuẩn nhiều sắc lệnh canh tân có thể ngăn chặn được cuộc Cải Cách Tin Lành, nhưng vì sự thiển cận và tính cách trần tục của Ðức Lêô X (làm giáo hoàng từ 1513 đến 1521) nên hầu hết các sắc lệnh cải tổ của công đồng đã không được thi hành. Ngoài ra, một số giám mục của Giáo Hội cũng không màng gì đến chuyện canh tân.

Chúng ta có thể tự hỏi tại sao không có người Công Giáo nào dám lên tiếng, đòi hỏi Giáo Hội phải cải tổ. Chắc chắn là có. Ngoài những người khởi đầu cuộc canh tân tâm linh và cải tổ dòng tu, còn có một tổ chức Kitô Giáo được gọi là Humanist (Nhân Bản). Ðược dẫn đầu bởi học giả Erasmus ở Rotterdam (1465-1536), các thành viên Humanist là những trí thức Công Giáo, họ buồn vì sự suy sụp của thần học Kinh Viện và sự gia tăng của phái Nominalist (hữu danh vô thực). Họ quyết định khôi phục tư duy Công Giáo đặt nền tảng trên Phúc Âm và văn bản của các Giáo Phụ. Erasmus sáng tác rất nhiều trong lãnh vực này, cũng như cực lực châm biếm lối sống sai lạc của người Công Giáo. Tuy nhiên, sự trào phúng và châm biếm cũng như sự lỗi lạc của Erasmus không đủ để canh tân Giáo Hội. Tình trạng Giáo Hội thời bấy giờ đã đến lúc mà chỉ có tính khí nóng nẩy và cực kỳ nghiêm trọng của Martin Luther mới khích động được việc cải tổ đến độ lung lay và chia cắt Kitô Giáo.

Sự Cải Cách Tin Lành (1517-1650)

1. Martin Luther (1480-1546). Một sử gia đã viết: “Cuộc Cải Cách xảy ra không vì Âu Châu quá trần tục mà là vì quá đạo đức.” Martin Luther, một người cục mịch thuộc thành phần nông dân Ðức, đã phát sinh chủ thuyết tôn giáo lý tưởng của người dân Âu Châu. Ông cũng là một tu sĩ dòng Augustine rất nghiêm nhặt và đã chăm chỉ học hành để trở thành một giáo sư Kinh Thánh của Ðại Học Wittenberg nước Ðức. Khi là tu sĩ, ông không có bình an khi cố gắng xóa bỏ mặc cảm tội lỗi qua sự sám hối và từ bỏ chính mình, nhưng ông cảm thấy thoải mái khi nhận thức rằng con người được công chính hóa chỉ bởi lòng tin, như Thánh Phaolô đã giải thích trong thư gửi tín hữu Rôma. Ðây là yếu tố then chốt đã khiến Luther niêm yết Chín Mươi Lăm Luận Ðề về Ân Xá lên cửa nguyện đường ở Wittenberg năm 1517. Ông phản đối người Công Giáo khi lệ thuộc vào công việc lành, dù bất cứ việc gì, kể cả ân xá, để được cứu độ và được tha tội.

Ðiều cay đắng của Cải Cách Tin Lành là hầu hết những gì Luther tin tưởng và chủ trương lại là các học thuyết chính trực của Công Giáo nhưng đã bị biến dạng bởi sự lạm dụng và thực hành sai lầm trong Giáo Hội, tỉ như bán ân xá và vụ lợi. Không may, sự chỉ trích của Luther về những hủ tục có thực này đã không được để ý đến. Ðức Giáo Hoàng Lêô X chỉ ra lệnh cho vị bề trên của Luther phải sửa sai ông, coi đó như một tu sĩ phản loạn dám đặt lại vấn đề thẩm quyền ban ân xá của Giáo Hội.

Lúc đầu, Luther không có ý định từ bỏ Giáo Hội Công Giáo, nhưng ông cũng từ chối không rút lại các tuyên bố cho đến khi được điều trần trước một hội đồng. Năm 1519, ông đến Leipzig để gặp thần học gia Johannes Eck. Và Eck đã đưa đường chỉ lối cho Luther từ chối thẩm quyền của các giáo hoàng cũng như các công đồng, và coi Phúc Âm như nguồn thẩm quyền duy nhất. (Một trong những thành quả đáng kể sau này của Luther là việc chuyển dịch Phúc Âm sang tiếng Ðức, nhờ đó, sau khi phát minh ra máy in, mỗi một người Tin Lành Luther đều có một quyển Phúc Âm bằng tiếng mẹ đẻ của mình). Ðến lúc này, Luther không còn coi mình là một người Công Giáo nữa; do đó ông viết ba luận đề khước từ quyền bính của Giáo Hội Công Giáo và các giáo hoàng, tẩy chay các bí tích của Giáo Hội (ngoại trừ bí tích Rửa Tội, Thánh Thể, và giải tội), và ông kêu gọi các thái tử Kitô Giáo ở Ðức hãy đứng lên thành lập giáo hội tự trị. Tất cả đã xảy ra đúng như vậy. Hầu hết các thái tử Ðức đều muốn thoát khỏi thẩm quyền và chế độ thuế khóa của Rôma, do đó họ ủng hộ Luther và bổ nhiệm các giám mục cho Giáo Hội Luther của họ. Tại Nghị Viện ở Worms năm 1521, Luther bị Giáo Hội Công Giáo chính thức phạt vạ tuyệt thông với sắc chỉ Exsurge Domine, và ông đã đốt sắc chỉ này cũng như một số sách Công Giáo. Ðối với người Công Giáo, sự khước từ quyền bính Giáo Hội của Luther là một thảm kịch lớn lao, không chỉ vì nó khởi đầu một ngăn cách trong nhiệm thể của Ðức Kitô, nhưng còn vì sự canh tân tích cực và cần thiết mà lẽ ra Luther đã có thể hoàn tất trong lòng Giáo Hội Công Giáo.

Vì cuốn sách này chủ yếu chỉ đề cập đến lịch sử Giáo Hội Công Giáo, do đó chúng tôi không đi xa hơn trong việc bành trướng của Giáo Hội Luther. Tuy nhiên, thật đầy đủ để nói rằng giáo phái Luther là hình thức Tin Lành gần với Công Giáo nhất, vì Luther còn giữ lại nhiều khía cạnh của đức tin và truyền thống Công Giáo, ngoại trừ những gì ông cho là đối nghịch với Phúc Âm. Các giòng Cải Cách khác ngày càng tách biệt với đạo Công Giáo.

2. Jean Calvin (1509-64). Jean Calvin là người Pháp, và sau khi học thần học và luật ở Balê khi còn trẻ, bỗng dưng ông chuyển hướng sang các quy tắc của phong trào Cải Cách được Luther khởi xướng. Sau đó, Calvin định cư ở Geneva, Thụy Sĩ, là nơi ông chủ trương sự tổng hợp thẩm quyền giữa nhà nước và Giáo Hội, mà địa vị hàng đầu được trao cho Giáo Hội. Trong thuyết chính trị thần quyền này, Calvin gò ép ra một lối sống Kitô Hữu nghiêm nhặt và khắc khổ tương tự như các đan viện thời trung cổ. John Knox (1513-72) ở Tô Cách Lan, sau khi đến Geneva, gọi đời sống đó là “trường phái học hỏi về Ðức Kitô tuyệt hảo nhất trên mặt đất kể từ thời các tông đồ,” và ông đã đưa chủ thuyết Calvin về Tô Cách Lan để trở thành Giáo Hội Presbyterian.

Văn bút vĩ đại của Calvin là cuốn Các Tổ Chức Kitô Giáo, nền tảng thần học của truyền thống Cải Cách. Calvin tẩy chay mọi tín điều không rõ ràng ghi trong Phúc Âm và chỉ tập trung đức tin vào Lời Chúa mà thôi. Giáo đường của ông màu trắng và thật trống trải. Không có bàn thờ, tượng ảnh, đàn organ, hay kính mầu. Mọi vết tích Công Giáo đều bị xoá sạch, ngoại trừ Phúc Âm. Lý thuyết của Calvin được tranh luận sôi nổi nhất là Thuyết Tiền Ðịnh, ông cho rằng ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã tiền định cho những ai được cứu rỗi và những ai bị luận phạt, do đó, công trạng con người không có giá trị gì. Vì được tiền định, những người được chọn chắc chắn sẽ sinh kết quả tốt đẹp qua sự chính trực và đời sống tốt lành của họ.

Giấc mơ hoán cải toàn thể nước Pháp của Calvin phần nào được thể hiện với sự bành trướng của phái Huguenot trong thế kỷ mười bảy.

3. Cuộc “Cải Cách Triệt Ðể”. Jean Calvin tách rời khỏi đức tin Công Giáo một cách triệt để hơn Martin Luther. Tuy nhiên, lại có những nhóm Tin Lành Cải Cách tách biệt xa hơn với đức tin Công Giáo. Huldreich Zwingli (1484-1531) khởi sự một nhà thờ trong thành phố Zurich, Thụy Sĩ, và chủ trương rằng Bữa Tiệc Ly chỉ là một bữa tiệc có tính cách tưởng nhớ, do đó không có sự hiện diện thực sự của Ðức Kitô. Một cách cay đắng, Luther bất đồng với Zwingli về điểm này trong cuộc Hội Ðàm ở Marburg năm 1529.

Trước khi từ trần trong cuộc chiến năm 1531, Zwingli ra lệnh dìm chết một số người ở Zurich, là những người nhất định phải tái rửa tội người lớn và chủ trương chỉ có sự rửa tội người lớn mới có giá trị. Những người này được gọi là Anabaptist (tái tẩy) và họ đã đi quá xa. Họ từ bỏ Zurich để thiết lập các cộng đoàn nhỏ bé, sống khắng khít trong các vùng hẻo lánh ở Moravia về phía đông. Trong thời gian này, tên Anabaptist được dùng để chỉ nhiều tổ chức khác nhau, nhưng chung quy, họ đều cho rằng tín điều của người Công Giáo và Tin Lành thì quá cực đoan. Một người Anabaptist là Thomas Munzer, đã xách động cuộc cách mạng nông dân, và “Vua Munster” là John ở Leiden, đã tấn chiếm một thành phố và cho phép tình dục bừa bãi ở đây. Một vài người Anabaptist vô trách nhiệm này đã khiến một số Kitô Hữu đích thực bị bách hại vô cùng dã man, tỉ như những người Hutterite ở Moravia, mà họ cùng chia sẻ tài sản và sống một cách êm đềm và siêng năng, và những người Mennonite ở Hòa Lan, là những người theo chủ nghĩa hòa bình và sống rất khắc khổ. Có lẽ trong thời kỳ này, những người Anabaptist chết vì đức tin nhiều hơn bất cứ người Kitô Giáo nào khác. Họ bị bách hại bởi người Công Giáo và cả người Tin Lành, và họ từ chối việc sử dụng vũ lực để tự vệ.

4. Cuộc Cải Cách ở Anh Quốc. Chúng ta có thể nhận thấy ba giòng Cải Cách Tin Lành trước đây — Luther, Calvin và Anabaptist — ngày càng ít giống với Giáo Hội Công Giáo mà họ đã tách biệt. Trước đây, nguyên tắc của Công Giáo là sự hợp nhất của đức tin, bây giờ được thay thế bằng nguyên tắc của Tin Lành là sự tinh tuyền của đức tin, càng ngày càng có nhiều tổ chức phân lập, mỗi một tổ chức đều cho rằng mình tinh tuyền hơn và trung tín hơn với phúc âm của Ðức Giêsu Kitô. Dựa trên nguyên tắc này, sự Cải Cách đã không thể tránh được việc phân chia Giáo Hội thành nhiều thực thể khác nhau. Tuy nhiên, nhận định này không làm xao xuyến nhiều người Tin Lành mà họ cho rằng Ðức Giêsu đã thành lập một thực thể vô hìnhthiêng liêng bao gồm tất cả những ai tin vào Ðức Kitô theo như họ nghĩ, chứ không phải một thực thể hữu hình, có quá trình lịch sử đang hiện diện trong hình thức hợp nhất trên thế giới như người Công Giáo hiểu biết về giáo hội. Ðây là một trong những khác biệt quan trọng trong sự hiểu biết giữa người Công Giáo và hầu hết người Tin Lành.

Tuy nhiên, giáo hội Cải Cách có quan điểm rất gần với Công Giáo, ít ra là lúc ban đầu, đó là Giáo Hội Anh Quốc, Anh Giáo. Vì lý do luân lý hoặc chính trị, Giáo Hội này được thành lập bởi Vua Henry VIII của nước Anh. Trước đó, Henry được một giáo hoàng đặt làm Người Bảo Vệ Ðức Tin. Sau đó, ông quyết định li dị người vợ của mình là bà Catherine ở Aragon, chỉ vì bà không sinh được con trai để thừa tự. Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VII từ chối không cho phép Henry li dị. Sau khi Ðức Hồng Y Wolsey, là Tổng Giám Mục của Canterbury, không thuyết phục được đức giáo hoàng để ban cho nhà vua điều này, Henry đã cách chức Wolsey năm 1529, và bổ nhiệm một người bạn tín cẩn là Sir Thomas More, một luật sư Công Giáo lên làm quan chưởng ấn của Anh. Thomas More, một người Công Giáo trung thành với đức giáo hoàng, khẳng định rằng ông chỉ chấp nhận chức vụ này nếu không dính líu đến vấn đề li dị của nhà vua. Vào năm 1534, khi Henry tự xưng là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh và cắt đứt liên hệ với Rôma, Thomas More đã từ chối không chịu tuyên thệ trung thành với nhà vua dưới danh hiệu này, và ông cũng từ chối không cho biết lý do. Trên phương diện luật pháp, lẽ ra cuộc đời của Thomas More đã được bình an vô sự, vì luật lệ của Anh cho rằng im lặng là đồng ý. Tuy nhiên, Henry không để sự “sơ hở” của luật pháp dung túng kẻ chống đối mình, nhất là một người nổi tiếng trong nước như Thomas More, do đó Thomas More đã bị chém đầu vào năm 1535, như một vị tử đạo vì đức tin Công Giáo. John Fisher, đức giám mục của Rochester cũng bị chém đầu, sau này cả hai vị đều được Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng là thánh.

Mặc dù khởi đầu của Anh Giáo là sự bất đồng với Công Giáo chỉ ở một điểm — thẩm quyền lãnh đạo của đức giáo hoàng — dưới thời các nhà lãnh đạo sau này, Anh Giáo ngày càng bị ảnh hưởng của Calvin và càng giống Tin Lành về phương diện đức tin. Người Công Giáo trong thế kỷ mười sáu và mười bảy bị bách hại một cách cay đắng ở Anh. Những người theo đức giáo hoàng được coi là phần tử phá hoại làm suy yếu nhà nước, nhất là sau khi Guy Fawkes, một người Công Giáo, mưu toan phá vỡ Nghị Viện Anh nhưng bất thành. Tuy nhiên, sau nhiều thế kỷ, một phần lớn Anh Giáo đã trở về với đặc tính của Công Giáo, và do đó ngày nay, nhiều người Anh Giáo tự coi họ là người Công Giáo hơn là người Tin Lành.

Sự Cải Cách Công Giáo (1500-1650)

Chắc chắn là Giáo Hội Công Giáo cần phải cải tổ vào năm 1500, khi bắt đầu nhen nhúm sự Cải Cách Tin Lành. Có nhiều người Công Giáo đã cố gắng canh tân Giáo Hội trước cả Luther và đã đạt được ít nhiều thành công. Ðức Hồng Y Jimenes de Cisceros, vị lãnh đạo Công Giáo Tây Ban Nha từ 1495-1517, đã đem lại nhiều cải tổ trong Giáo Hội Công Giáo Tây Ban Nha. Ở Ý, tổ chức Hội Dòng Về Tình Yêu Thiên Chúa, được thành lập ở Genoa năm 1497, là một hội đoàn do giáo dân tổ chức để nên thánh và phục vụ tha nhân. Những người Công Giáo như Erasmus ở Rotterdam và John Colet ở Anh đã công khai lên tiếng, than thở về sự suy đồi tâm linh của Giáo Hội Công Giáo. Công Ðồng Latêranô V đã phê chuẩn nhiều sắc lệnh cải tổ.

Tuy nhiên, nhiều người Công Giáo, kể cả đức giáo hoàng, đã không coi trọng việc cải tổ Giáo Hội cho đến khi các cuộc cải cách Tin Lành bùng nổ một cách táo bạo và tách khỏi sự hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo. Một hậu quả tích cực của Cải Cách Tin Lành là nó đã làm phát sinh các nỗ lực cải tổ và canh tân một cách cần mẫn trong lòng Giáo Hội Công Giáo. Mặc dù người Công Giáo không thể đồng ý rằng việc chia cắt Giáo Hội của Ðức Giêsu là chính đáng, (và do đó cực lực chống đối các nhà cải cách Tin Lành), các nhà lãnh đạo và giáo dân Công Giáo trong thế kỷ mười sáu nhận thức rằng họ phải sám hối vì đã thất bại trong việc cải tổ. Họ bắt đầu tha thiết canh tân trong lòng Giáo Hội.

1. Canh Tân Qua Các Dòng Tu. Cuộc Cải Cách Công Giáo được phát động bởi việc thành lập các dòng tu và tổ chức mới, cũng như việc cải tổ các dòng hiện có. Một trong những quan tâm chính yếu của cuộc cải cách Công Giáo là việc tìm kiếm hàng giáo sĩ thánh thiện, hăng say và sống độc thân để dẫn dắt Giáo Hội trong sự canh tân. Dòng dẫn đầu là Dòng Tên, được sáng lập bởi Thánh I-Nhã ở Loyola năm 1534 và được đức giáo hoàng công nhận vào năm 1539. I-Nhã là một quân nhân Tây Ban Nha bị thương chân trong cuộc chiến năm 1521. Trong thời gian bình phục, I-Nhã đã đọc về cuộc đời Ðức Kitô và hạnh các thánh, và điều ấy đã đem lại cho ngài một niềm vui lớn lao đến độ ngài quyết định dành trọn cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa trong Giáo Hội Công Giáo. Sau khi được giáo dục kỹ lưỡng, I-Nhã đã tuyển sáu người để thành lập một tu hội — trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo nổi tiếng. Bất kể những nghi ngờ thường xuyên của Tòa Thẩm Tra, sau cùng tu hội của I-Nhã đã được đức giáo hoàng chuẩn nhận. Vâng phục Giáo Hội Công Giáo và đức giáo hoàng là đặc điểm của Dòng Tên. Nhà dòng khởi sự bằng việc giáo dục người mù chữ và người nghèo, nhưng sau đó vài năm nhà dòng dạy cả các thái tử và vua quan. Các tu sĩ Dòng Tên cũng là các nhà truyền giáo vĩ đại; Thánh Phanxicô Xaviê đã đem Tin Mừng đến cho Ấn Ðộ và Nhật Bản năm 1541. Sau này, việc bảo vệ đức tin là công việc chính của các cha Dòng Tên. Thánh Phêrô Canisius ở Ðức đã viết sách giáo lý Công Giáo đến nỗi người Tin Lành cũng phải khen ngợi. Thánh Robert Bellarmine là một thần học gia nổi tiếng và là người hướng dẫn cuộc canh tân của Công Ðồng Triđentinô. Sau cùng, cuốn Rèn Luyện Tâm Linh của Thánh I-Nhã trở thành kinh điển của linh đạo Kitô Giáo và là nền tảng cho các cuộc tĩnh tâm của Dòng Tên cũng như để nhận thức tâm linh.

Mặc dù Dòng Tên trở nên dòng lớn nhất và có ảnh hưởng nhất của cuộc cải cách Công Giáo, nhiều nhà dòng khác cũng góp phần canh tân Giáo Hội Công Giáo. Trong số này có Dòng Capuchin — một nhánh biến cải của Dòng Phanxicô và chỉ đứng sau Dòng Tên về sự ảnh hưởng — Dòng Thêatinô, Dòng Sômasca, và Dòng Thánh Phaolô (Barnabites). Các dòng tu nữ, như các nữ tu Ursulin (1535), cũng có ảnh hưởng trong sự canh tân Giáo Hội, cũng như các hội dòng (Oratory) — là nhóm người cùng chí hướng để cầu nguyện và phục vụ mà trong đó có cả giáo dân. Hội dòng củaThánh Philip Nêri, thành lập ở Rôma năm 1517, rất nổi tiếng và rất có kết quả. Thánh Philip Nêri, vị thánh vui vẻ, quan thầy của giới trẻ và là nguồn cảm hứng cho mọi Kitô Hữu.

2. Công Ðồng Canh Tân: Công Ðồng Triđentinô (1545-63) và Các Hậu Quả. Mặc dù các tổ chức nói trên có ảnh hưởng tích cực, Giáo Hội Công Giáo vẫn cần ngồi lại với nhau để tìm cách canh tân qua các phương cách của một công đồng, nơi quy tụ các giám mục. Các giám mục cần đồng ý với nhau về cách đáp ứng với cuộc Cải Cách Tin Lành và những tiến trình cần thiết để cải tổ và canh tân Giáo Hội Công Giáo. Sau nhiều lần trì hoãn, Ðức Giáo Hoàng Phaolô III đã khai mạc Công Ðồng Triđentinô năm 1545. Mặc dù nhiều nhà lãnh đạo Công Giáo, tỉ như Ðức Hồng Y Gaspar Contrarini, tìm cách hoà giải Giáo Hội Công Giáo với các giáo phái Tin Lành khác nhau, nhưng vào năm 1545, sự tách biệt giữa Công Giáo và Tin Lành còn quá sâu đậm và quá đau lòng để có thể hy vọng một sự hợp nhất trong Giáo Hội của Ðức Kitô ở Tây Phương. Do đó, Công Ðồng Triđentinô bắt đầu làm sáng tỏ và xác định những gì là giáo huấn của Giáo Hội, nhất là những điểm không được Tin Lành thừa nhận. Triđentinô xác nhận đức tin Công Giáo trong bảy bí tích do Ðức Kitô thiết lập; sự công chính hóa của một người là bởi đức tin được thể hiện qua công việc tốt lành hay bác ái; Thiên Chúa mặc khải cho Giáo Hội qua Phúc Âm và truyền thống tông đồ; và bản chất của Thánh Lễ là một sự tưởng nhớ hay tái diễn sự hy sinh duy nhất của Ðức Giêsu trên đồi Canvê xưa. Công Ðồng Triđentinô còn chấn chỉnh nhiều lạm dụng bị người Công Giáo cũng như Tin Lành lên án. Hình thức mua ân xá bị hủy bỏ và đề cao việc sùng kính các thánh và Ðức Maria một cách thích hợp. Một trong những thành quả quan trọng của Công Ðồng là hình thành hệ thống đào tạo chủng sinh. Mỗi một giáo phận sẽ thiết lập một chủng viện để đào tạo và giáo dục các linh mục. Kết quả là các linh mục triều có học thức hơn và tâm hồn thanh khiết hơn để rao giảng Phúc Âm và là gương sáng cho giáo dân.

Trước Công Ðồng Triđentinô đã có nhiều công đồng khác lưu tâm đến việc canh tân Giáo Hội Công Giáo. Nhưng Triđentinô thật khác biệt, vì hầu hết các sắc lệnh cải tổ đều được tiến hành và có hiệu lực. Mặc dù nhiều nhà cầm quyền và nhiều quốc gia đã tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo vì hậu quả của sự Cải Cách Tin Lành, một cách tổng quát, những người còn trung thành với Công Giáo đều tích cực hỗ trợ sự canh tân đạo Công Giáo. Hầu hết các giáo hoàng từ cuối thế kỷ 16 trở về sau đều coi sự cải tổ và canh tân tâm linh là điều tiên quyết, cũng như các giám mục, tỉ như Thánh Charles Borromeo, là tổng giám mục của Milan từ 1565 đến 1585. Thần Khí của Ðức Kitô và tin mừng của Người lại chan hòa một cách sung mãn qua Giáo Hội Công Giáo và được thấy rõ qua vị thủ lãnh trần thế và mọi phần tử của Giáo Hội.

Ðáng buồn là vì hậu quả của sự Cải Cách Tin Lành, Giáo Hội Công Giáo giờ đây không còn tính cách hoàn vũ như trước nữa. Giáo Hội phải thắt chặt kỷ luật hơn và nhận ra căn tính của mình, qua việc rút ra khỏi các sinh hoạt trần tục đến một mức độ nào đó để xác định lối sống và căn tính của Giáo Hội. Một số người nói rằng Giáo Hội Công Giáo trở nên một giáo hội thành trì — biết rõ về căn tính của mình nhưng ở thế thủ vì sự chống đối của các giáo phái Tin Lành.

Tuy nhiên, một cái nhìn khác về Giáo Hội Công Giáo sau Cải Cách là hãy coi đó như một giáo hội đã được thanh luyện, canh tân, và phản ánh đời sống Ðức Kitô rõ ràng hơn. Ðó là một mùa xuân mới, mùa hoa đức tin bừng nở và nhiều người Công Giáo đạo đức hơn. Việc sùng kính Ðức Maria và các thánh được thanh lọc và canh tân. Công Ðồng Triđentinô khuyến khích người Công Giáo siêng năng rước lễ — tối thiểu một tuần một lần — và thường xuyên đi xưng tội. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể được khuyến khích qua các giờ chầu. Tuy Thánh Lễ vẫn còn được cử hành bằng tiếng Latinh hơn là tiếng địa phương, các sách lễ và những phương tiện sùng kính khác đã giúp giáo dân tham dự Thánh Lễ sốt sắng hơn.

3. Các Vị Thần Nghiệm Công Giáo và Các Thánh Hoạt Ðộng Xã Hội. Thời kỳ cực lực canh tân này còn được ghi dấu bởi sự xuất hiện đông đảo các vị thần nghiệm và các thánh. Khoa thần nghiệm là phương cách nhận biết Thiên Chúa một cách trực tiếp qua tâm trí hay linh hồn, nhận biết Thiên Chúa bằng con tim. Các vị lãnh đạo Công Giáo rất e dè về khoa thần nghiệm, vì sợ rằng khi quá chú trọng đến cảm nghiệm hay tâm tình cá nhân, rất có thể người giáo dân không nhận ra đó là sự lừa gạt của ma qủy hay ác thần. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã tạo nên nhiều vị thần nghiệm vĩ đại trong thời kỳ này, nhất là ở Tây Ban Nha. Thánh Têrêsa ở Avila (1515-82) là một người Tây Ban Nha gia nhập dòng Camêlô khi hai mươi tuổi và sống một cuộc đời bình thường cho đến năm 1556. Vào lúc ấy, sau khi trải qua mười lăm năm khô khan trong việc cầu nguyện, Thánh Têrêsa có được một điều mà ngài gọi là sự hoán cải lần thứ hai, và bắt đầu cảm nghiệm cách cầu nguyện huyền bí — nhiều khi được thấy hoăïc nghe tiếng nói của Chúa. Ngài trở nên người cực lực cải tổ dòng Camêlô, sáng lập dòng nữ tu Camêlô đi chân đất và mười lăm chi nhánh khác trước khi từ trần. Các sách của thánh nữ, gồm cuốn Tự Truyện, Ðường Trọn Lành, và Thành Trì Nội Tâm, được coi là kinh điển tu đức.

Thánh Têrêsa rất có ảnh hưởng đến một tu sĩ Camêlô người Tây Ban Nha khác, đó là John de Yepes (1542-91), thường được gọi là Thánh Gioan Thánh Giá. Là một vị thần nghiệm, đời sống thánh nhân phải đau khổ nhiều và ngài đã diễn tả phương cách đến với Thiên Chúa qua những tăm tối và đau khổ trong các sách của ngài:Ðêm Tối của Linh Hồn, Ðường Lên Núi Camêlô, Ca Vịnh Tâm Linh,  Sống Lửa Tình Yêu.

Giáo Hội Công Giáo Pháp sau thời Cải Cách đã tạo được nhiều vị thánh nổi tiếng, như Thánh Francis de Sales (1567-1622), Thánh Jeanne de Chantal (1572-1641), vàThánh Vincent de Paul (1581-1660). Thánh Francis de Sales là giám mục của Geneva, Thụy Sĩ từ 1602 đến 1622, ngài nổi tiếng là một cha sở giỏi và là một người thông minh xuất chúng. Cuốn sách của ngài, Dẫn Nhập Vào Ðời Sống Ðạo Ðức và Luận Ðề về Tình Yêu Thiên Chúa, là hướng dẫn tâm linh cho những người tầm thường muốn nên thánh qua các phương tiện đời sống hàng ngày. Qua sự rao giảng và văn bút của ngài, thánh nhân đã thu hút được hàng ngàn người Tin Lành Thụy Sĩ trở về với đức tin Công Giáo. Ngài được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh, và đặt làm quan thầy cho ba dòng tu.

Một trong những người bạn thân của Thánh Francis de Sale là Jeanne de Chantal, một goá phụ, là người cùng với Thánh Francis sáng lập Dòng Thăm Viếng năm 1610. Dòng nữ tu này đầu tiên hoạt động cho người nghèo và bệnh nhân, sau đó tận hiến cho việc cầu nguyện. Vào lúc từ trần, Thánh Jeanne de Chantal đã thành lập được tám chi nhánh.

Thánh Vincent de Paul rất hăng say trong việc canh tân và rất yêu quý người nghèo. Tu Hội Truyền Giáo của ngài là một dòng tu nhằm thúc đẩy lòng đạo đức của giáo sĩ Pháp. Ngài còn giúp sáng lập dòng Nữ Tu Bác Ái năm 1633, là dòng nữ đầu tiên tích cực hoạt động xã hội, chăm sóc người nghèo và người đau yếu. Thánh Vincent cũng tích cực trong công việc bác ái đủ mọi loại, tỉ như chuộc người nô lệ từ các tầu lao dịch. Ngài là quan thầy của mọi công cuộc bác ái.

4. Công Cuộc Truyền Giáo Khắp Nơi. Ngoài sự dồi dào của các vị thần nghiệm, giảng thuyết, và các thánh hoạt động xã hội, cuộc Cải Cách Công Giáo còn được ghi dấu bằng sự khởi đầu một giai đoạn truyền giáo lâu dài mà nhờ đó đã nới rộng Giáo Hội Công Giáo đến khắp các quốc gia trên thế giới. Trong thời Trung Cổ, có một vài công cuộc truyền giáo ra nước ngoài, tỉ như việc thiết lập Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa Lục Ðịa năm 1307 của tu sĩ dòng Phanxicô là Gioan ở Montecorvino. Tuy nhiên, Kitô Giáo còn hạn hẹp trong Âu Châu cho đến khi Christopher Columbus tìm ra Tân Thế Giới vào năm 1492 và khi người Bồ Ðào Nha đi thám hiểm Ấn Ðộ. Sau đó công cuộc truyền giáo của Giáo Hội Công Giáo như bùng nổ. Thánh Phanxicô Xaviê, dòng Tên, là người đầu tiên đem Tin Mừng đến vùng Viễn Ðông năm 1542, và sau đó không lâu, ngài được tiếp nối bởi các cha dòng Tên, Matteo Ricci, người viễn chinh đến Trung Hoa năm 1581, và Robert de Nobili, người đã theo lối sống của Bàlamôn để đem đức tin Công Giáo vào Ấn Ðộ. Công cuộc truyền giáo thành công nhất ở Á Châu là Phi Luật Tân, nơi đây một giám mục được tấn phong vào năm 1581. Ngày nay, người Công Giáo Phi chiếm đến 80 phần trăm dân số.

Ðể khích lệ nỗ lực truyền giáo, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XV thành lập Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin vào năm 1622. Bất cứ các nhà thám hiểm đến đâu thì các nhà truyền giáo cũng đến đó. Bất kể sự tàn ác của người Tây Ban Nha xâm lược ở Tây Bán Cầu, các nhà truyền giáo thường tranh đấu cho quyền lợi của người bản xứ ở vùng Trung và Nam Mỹ Châu. Họ giáo dục và lo cho các sắc dân ở Tân Thế Giới, cũng như hoán cải những người này. Cuộc truyền giáo sáng chói nhất của Công Giáo Tây Ban Nha là Bartholomew Las Casas (1474-1566), vị tu sĩ dòng Ðaminh này đã băng qua biển Atlantic mười bốn lần để bảo vệ quyền lợi chính đáng của thổ dân đối với nhà cầm quyền Tây Ban Nha, và Thánh Turibius, đức tổng giám mục của Lima, Peru từ 1580 đến 1606, người bảo vệ các quyền tự do của người da đỏ và da đen, ngài dạy bảo họ, và chuyển dịch kinh sách sang tiếng thổ âm. Năm 1588, linh mục Joseph Acosta dòng Tên, người đầu tiên viết về quan điểm truyền giáo kiểu mới và khuyến khích việc đào tạo linh mục người bản xứ. Các linh mục dòng Tên còn thiết lập các ngôi làng, như ấp chiến lược, cho người Paraguay mà từ đó đã trở nên trung tâm thờ phượng và sinh hoạt chung rất tốt đẹp.

Ở Bắc Mỹ, người Pháp chiếm Gia Nã Ðại làm thuộc địa, và các tu sĩ dòng Tên cũng như dòng Phanxicô tích cực truyền giáo cho các bộ lạc người Huron, Algonquin, và Iroquois. Máu các vị tử đạo đã in vết trong nỗ lực hoán cải những dân tộc này, tỉ như cái chết anh hùng và đẫm máu của các linh mục dòng Tên, Isaac Jogues (bị tử đạo bởi người Iroquois năm 1646), Jean de Brebeuf, và những vị khác. Trong khoảng thời gian từ 1625 đến 1640, Jean de Brebeuf đã rao giảng cho trên mười ngàn người da đỏ Huron và giúp hoán cải phần lớn sắc dân này. Các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đến nơi mà ngày nay là vùng tây Hoa Kỳ, từ đó nhà truyền giáo Eusebio Kino đã hoạt động ở New Mexico và linh mục Junipero Serra dòng Phanxicô đã thành lập các trung tâm truyền giáo dọc theo bờ biển California, nhiều trung tâm vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Kết Luận

Ðâu là kết quả sau cùng của cuộc Cải Cách Công Giáo và Tin Lành? Giáo Hội Công Giáo bắt đầu cải tổ qua ơn sủng của Thiên Chúa. Cuộc cải tổ của Công Giáo nhấn mạnh đến ba điểm: đạo đức (hình thức mới trong sự thờ phượng), kỷ luật (chấn chỉnh những lạm dụng và thanh lọc đời sống Công Giáo), và học thuyết (làm sáng tỏ các tín điều Công Giáo). Sử gia Thomas Bokenkotter đã nhận định về các kết quả canh tân này như sau:

Vào lúc kết thúc Công Ðồng Triđentinô năm 1563, giáo phái Tin Lành đã tràn lan trên một nửa Âu Châu. Tuy nhiên, chiều hướng này đã đảo ngược vào cuối thế kỷ. Với việc công bố các sắc lệnh của Công Ðồng Triđentinô và sự bộc phát luồng sinh khí mới trong Giáo Hội Công Giáo — đặc biệt được thể hiện qua các tu sĩ dòng Tên và sự phục hưng giáo triều — Giáo Hội Công Giáo bắt đầu giành lại được nhiều phần lãnh thổ. Ba Lan quay trở về với Công Giáo; một phần lớn của nước Ðức, Pháp, và nam Hòa Lan đã hiệp thông với Tòa Thánh, trong khi Tin Lành không có sự tiến bộ khả quan nào sau năm 1563. Và công cuộc truyền giáo của Công Giáo ở nước ngoài đã bù đắp cho những mất mát đau thương ở Âu Châu.

Trong khi Phúc Âm được loan truyền cho đến tận cùng trái đất bởi các nhà thừa sai Công Giáo trong tiền bán thế kỷ mười bảy, Âu Châu đã đắm chìm trong các cuộc chiến tôn giáo cay đắng giữa người Công Giáo và Tin Lành và giữa các quốc gia theo Tin Lành. Cuộc chiến sau cùng xảy ra ở nước Ðức. Cuộc chiến Ba Mươi Năm (1618-1648) được chấm dứt bằng Thỏa Ước Westphilia (1648), mà nó đã đem lại cho người Công Giáo, Luther, và Calvin ở Ðức sự bình đẳng trước pháp luật. Trên thực tế, mỗi quốc gia hay mỗi vùng trong nước đều có một “giáo hội” Kitô Giáo riêng của nó, và tín đồ của các giáo phái khác sống trong lãnh thổ đó thường bị bách hại trực tiếp hay gián tiếp. Mặc dù sau các cuộc tranh chấp đều có những thỏa ước, Kitô Giáo Âu Châu bị chia cắt thành nhiều bãi chiến trường mà trong đó tôn giáo là yếu tố then chốt. Tình trạng thê thảm này đưa đến việc tìm kiếm một “tôn giáo hợp lý” trong giai đoạn Kitô Giáo sắp tới.

Tuy nhiên, trong mỗi một vùng của Giáo Hội phân ly, vẫn có nhiều nơi mà Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô bừng cháy một cách chói lọi. Chắc chắn rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn mong tìm ra cách củng cố đời sống Công Giáo ở Âu Châu cũng như để lan tràn đức tin Công Giáo trên toàn thế giới. Cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo đã vượt qua được những thử thách lớn lao và đã tồn tại với một sinh lực được đổi mới.

Nguồn bài đăng

*Alan Schreck: giáo sư thần học của Ðại Học Steubenville thuộc dòng Phanxicô ở OhioQuảng cáo

Previous articleBí ẩn tấm vải liệm Chúa Jesus
Next articleNhững nét khái quát về nghệ thuật Bonsai Nhật Bản