Trong đời sống xã hội, có điều gọi là ý thức cộng đồng của mỗi người dân và mọi người dân. Một đất nước chỉ tiến bộ nếu đa số người dân đều có ý thức cộng đồng cao.
Ý thức về cộng đồng thì rất dễ thấy. Trong xóm mọi người có ý thức cộng đồng về xóm, thì không xả rác tứ tung, không tè bậy mọi nơi, chào nhau tử tế khi gặp nhau ngoài đường, tránh cãi nhau, và luôn tìm cách giải quyết các mâu thuẫn một cách ôn hòa và có văn hóa.
Nhân rộng ra thì trong quốc gia, mọi người dân có ý thức về đất nước, giữ gìn môi trường, không săn và ăn thịt thú rừng, không xả rác và tạo ô nhiễm môi trường, không buôn bán gian lận, không bè phái với tham nhũng, quan tâm đến những vấn đề chung của đất nước như y tế, giáo dục, môi trường, an ninh, người nghèo, công bình, bình đẳng…
Nhiều người dân càng có ý thức cộng đồng cao, đất nước càng phát triển mạnh. Nhiều người dân càng chỉ biết cho mình mà bỏ lơ cộng đồng, đất nước càng tụt hậu.
Người Việt nói chung có ý thức cộng đồng thấp hơn nhiều so với các quốc gia tiên tiến. Mình nghĩ rằng đó là ảnh hưởng của nền văn hóa nô lệ trong thời kỳ đô hộ dài cả nghìn năm của Tàu và trăm năm của Tây. Trong thời đô hộ, người ta chỉ biết đến gia đình của mình, bước ra khỏi nhà thì mọi thứ đều thuộc chính quyền đô hộ – nhà nước là nhà nước đô hộ, quan chức là quan chức đô hộ, đất nước là đất nước của chính quyền đô hộ, luật lệ là luật lệ đô hộ, cho nên chẳng ai muốn quan tâm đến quan chức, nhà nước, luật pháp và đất nước (tức là cộng đồng của mình. Ngoại trừ những người quan tâm kiểu đi kháng chiến chống đô hộ, tức là chống lại mọi định chế xã hội chính trị của đất nước). Chính văn hóa và tư duy của kẻ bị đô hộ đó trong nhiều ngàn năm đã đi vào xương tủy, tạo ra cho người Việt một ý thức cộng đồng yếu và, do đó, chúng ta ít quan tâm đến cộng đồng và sẵn sàng để làm nhiều chuyện hại cộng đồng, như là làm bẩn môi trường, phá rừng, thích nhậu thịt rừng dù ai nói gì, hôi của khi thiên hạ gặp hoạn nạn, không quan tâm và không hiểu nhiều về các vấn đề hệ trọng của đất nước, đừng nói đến thế giới.
Đó là chưa nói dân bị đô hộ thường bị chính quyền đô hộ nhồi sọ: “Chúng mày tụt hậu và ngu dốt, phải nghe lời chúng ông dạy bảo”, và giáo dục đô hộ lại đi kèm với vũ lực trừng phạt nữa, cho nên việc nhồi sọ rất dễ thành công. Sau nhiều ngàn năm, chúng ta có thói quen nghĩ rằng chúng ta dốt nát, và do đó chúng ta không phục nhau, dễ hạ nhau và đạp đầu nhau, nhất là khi có bất đồng ý kiến.
Tất cả những kiểu tư duy “bị đô hộ” ngày nay còn tồn tại rất nhiều trong các quốc gia cựu thuộc địa, mới giành được độc lập trong thế kỷ 20, ở Á châu, Phi Châu, Trung và Nam Mỹ. Dù đã được độc lập, nhưng tư duy thì vẫn là tư duy tự ti, không tin vào cộng đồng, thiếu tương kính và đoàn kết, và ứng xử với nhau bằng vũ lực độc đoán. Các bạn có thể thấy những điều này rất rõ, cho đến lúc này, 2022, trong hầu hết mọi quốc gia cựu thuộc địa. Chính vì vậy mà con đường chính trị và phát triển kinh tế của các quốc gia cựu thuộc địa luôn có nhiều gian nan và khủng hoảng.
Chúng ta cần nắm vững những điều này để mỗi người tự giải phóng mình ra khỏi tư duy tự ti, lờ cộng đồng, thiếu tương kính, thiếu đoàn kết, và ứng xử với nhau bằng tranh chấp và vũ lực nhiều hơn là ôn hòa và nhân văn.
Đây là vấn đề của mỗi người chúng ta và cũng là vấn đề rất lớn của đất nước. Chúng ta cần thoát ra khỏi văn minh nô lệ đã bám vào xương tủy cả ngàn năm, sống với tư duy mới: nhiều trách nhiệm cộng đồng, nhiều tự tin, nhiều tương kính, nhiều nhân văn, nhiều đoàn kết và hỗ trợ nhau. Đây là việc của mỗi chúng ta. Nhà nước có thể có một số chính sách hỗ trợ cùng hướng đó, nhưng thay đổi là thay đổi tư duy của mỗi người. Ta phải thay đổi tư duy ta, nhà nước chẳng làm gì hơn được.
Các bạn, những điều này mình viết với ngôn ngữ xã hội học, nhưng thực ra chúng vẫn đều có gốc rễ trong đời sống tâm linh – yêu mọi người với trái tim tích cực và trong sáng.
Chúc các bạn có ý thức cộng đồng cao. st