Các từ tiếng Việt vay mượn tiếng Pháp rất nhiều, trừ một số người xưa thì biết, sau này, mọi người dùng theo thói quen, mà không biết chữ đó từ chữ nào mà ra.
Ví dụ: Mọi người hay nói: đi chơi “tăng” 2, nói vậy, chứ không hiểu chữ “tăng” đó là chữ “temps” của tiếng Pháp, trong nghĩa là ”lần, thời gian” (giống chữ “times” trong English nhỉ) Hôm nay, mình mày mò, gom được khoảng gần 100 từ vô một bài thơ lục bát, và có mở ngoặc, ghi chú thêm phần tiếng Pháp gốc của từ đó. Rất mong lớp trẻ sau này hiểu được rõ nguồn gốc từ ngữ mình dùng, gọi là chút đóng góp cho cộng đồng người Việt mình.
Lục bát Việt – Pháp
Tiếng Pháp, tiếng Việt giống nhau, Cùng nhau tìm chữ, tìm câu hàng ngày. Mu-soa (mouchoir) là cái khăn tay, Buya-rô (bureau) bàn giấy, để ngay văn phòng. Savon là cục xà-bông. Ban-công (balcon) là chỗ đứng trông trước nhà. Xót-ti (sortir) có nghĩa: đi ra. Ve(vert): màu xanh lá, màu là cu-lơ( couleur). Beurre: thì có nghĩa là bơ Ăn với ba-gét (baguette): bánh mì đũa que. Chìa khóa còn gọi cờ-lê (cle’) Đốc-tơ (docteur): bác sĩ, kẹo là bòn-bon (bonbon) Thịt nguội còn gọi giăm-bông (jambon) Quần dài, là păng-ta-lông (pantalon), đúng không? Tóc tém: đờ-mi gạc-xông (demi garcon). Phòng khách có ghế sa-lông (salon) để ngồi. Súp-lơ (choux fleur): bông cải, bỏ nồi. Cùi-dìa (cuillère): thìa, muỗng, xin mời ăn cơm! Quả táo còn gọi: trái bơm (pomme) Dễ thương, hay gọi mi-nhon (mignonne), hay dùng. Coát-xăng (croissant) là bánh hai sừng. Cà-rem (creme) ai thấy cũng mừng, cũng ham. Đặt hàng còn gọi còm-măng (commande) Sớp-phơ (chauffeur) tài xế, phải ngồi vô lăng (volant) Gọi mẹ, thì gọi ma-măng (maman) Thường trực là pẹc-ma-năng (permanent) nghe bà ! Lối đi qua, gọi cu-loa (couloir) Bi-da (billard) chơi nhớ, phải chà cục lơ (bleu) Người chạy xe đạp: cua-rơ (coureur) Đồng hồ điện, gọi công-tơ (compteur) hã bồ? Bảo vệ là gạc-đờ-co (garde de corps) Áo khoác dài gọi măng-tô (manteau) đó mà. Tạm biệt, nói ô-rờ-voa (au revoir) Món gà nấu đậu, gọi là la-gu (ragout) Chửi nhau nói: mẹc-xà-lù (merde salaud) Pê-đan (pédale) bàn đạp, rất cần cho xe. Màu da ta gọi màu be (beige) Cà-vẹt (carte verte) là giấy xe nè, hở anh? Thắng xe, thì gọi là phanh (frein) Cà-vạt (cravate) nhớ thắt, để thành … đẹp trai. Pít-xin (piscine) là cái hồ bơi. Búp-bê (poupée) bé thích, bé ngồi, bé mơ… Buộc-boa (pourboire) ám chỉ tiền bo. Tích-kê (ticket) là vé, ri-đô (rideau) là màn. Táp-pi (tapis) là tấm thảm sàn. Sinh nhật, nhớ mở nhảy đầm đãng-xê (danser) Đầm dài là cái xoa rê (soirée) Giuýp (jupe) là váy ngắn, nhìn mê không bồ? Xe hơi còn gọi ô tô (auto) Đờ mi (demi): một nửa, bô (beau) là đẹp trai. Đúp (double) thì có nghĩa: gấp hai. Bưu ảnh, là cạc-pốt-tan (carte postale) có hình. Co (corp) là để chỉ thân mình. Đề-pa (départ) mang nghĩa khởi hành đó nha. Tôi thì mình xưng là moa (moi) Còn bạn có nghĩa là toa (toi), là mày. Tiếng Pháp Việt hóa, thật hay. Nhưng không thể viết một ngày mà xong. Chỉ mong đóng góp cộng đồng . Soạn đi soạn lại, vẫn còn nhiều ghê. Thủ quỹ quen gọi két-xê (caissier) Giới thiệu nhà cửa, bởi mê tiền cò (com: commission) Bệnh hoạn, ai lại chẳng lo? Chạy mua thuốc ở tiệm gọi là phạc-ma-xi (pharmacie) Màu xám còn gọi màu ghi (gris) Cục gơm (gomme) để xóa, viết chì để ghi. Con gái tôi, gọi ma-phi (ma fille) Đét-xe (dessert) tráng miệng, ăn khi tiệc tàn. Nhảy đầm, đẹp nhất điệu van (valse). Nhẹ nhàng thanh thoát, chàng nàng say mê. Mỗi sáng một phin (filtre) cà phê (café) Bắt đầu làm việc, không hề quên đâu. In-trô (intro): khúc nhạc dạo đầu. Cam-nhông (camion): xe tải, lơ (bleu): màu xanh xanh. Tiệc tùng khui rượu sâm-banh (champagne). Sô-cô-la (chocolat) đắng, người sành thấy ngon. La-de (la bière) uống giống bia lon. Có người không thích, thì ngồi chê bai. Bia (bière) bọt, chỉ nên lai rai. Uống nhiều bia quá, hao tài, hao phăng (Franc) Tiền thì nhớ bỏ nhà băng (banque) Trai gái sắp cưới, gọi là phi-ăng-xê (fiancé) Mùa hè nắng gắt thấy ghê, Nhớ đeo găng (gants) để bị chê đen thùi. Ăn cơm, ăn xúp (soupe), ăn nui (nouille). Nhớ chan nước xốt (sauce), nhớ mùi rau thơm. Điện tín là tê- lê-gam (télégramme) Vợ tôi thì nói ”ma pham” (ma femme) của mình. Te-ríp (terrible): là chuyện thất kinh. Phi-nan (final): kết thúc… thôi thì… mình xì-tốp (stop) …lun…
Lục bát Việt – Pháp
Tiếng Pháp, tiếng Việt giống nhau, Cùng nhau tìm chữ, tìm câu hàng ngày. Mu-soa (mouchoir) là cái khăn tay, Buya-rô (bureau) bàn giấy, để ngay văn phòng. Savon là cục xà-bông. Ban-công (balcon) là chỗ đứng trông trước nhà. Xót-ti (sortir) có nghĩa: đi ra. Ve(vert): màu xanh lá, màu là cu-lơ( couleur). Beurre: thì có nghĩa là bơ Ăn với ba-gét (baguette): bánh mì đũa que. Chìa khóa còn gọi cờ-lê (cle’) Đốc-tơ (docteur): bác sĩ, kẹo là bòn-bon (bonbon) Thịt nguội còn gọi giăm-bông (jambon) Quần dài, là păng-ta-lông (pantalon), đúng không? Tóc tém: đờ-mi gạc-xông (demi garcon). Phòng khách có ghế sa-lông (salon) để ngồi. Súp-lơ (choux fleur): bông cải, bỏ nồi. Cùi-dìa (cuillère): thìa, muỗng, xin mời ăn cơm! Quả táo còn gọi: trái bơm (pomme) Dễ thương, hay gọi mi-nhon (mignonne), hay dùng. Coát-xăng (croissant) là bánh hai sừng. Cà-rem (creme) ai thấy cũng mừng, cũng ham. Đặt hàng còn gọi còm-măng (commande) Sớp-phơ (chauffeur) tài xế, phải ngồi vô lăng (volant) Gọi mẹ, thì gọi ma-măng (maman) Thường trực là pẹc-ma-năng (permanent) nghe bà ! Lối đi qua, gọi cu-loa (couloir) Bi-da (billard) chơi nhớ, phải chà cục lơ (bleu) Người chạy xe đạp: cua-rơ (coureur) Đồng hồ điện, gọi công-tơ (compteur) hã bồ? Bảo vệ là gạc-đờ-co (garde de corps) Áo khoác dài gọi măng-tô (manteau) đó mà. Tạm biệt, nói ô-rờ-voa (au revoir) Món gà nấu đậu, gọi là la-gu (ragout) Chửi nhau nói: mẹc-xà-lù (merde salaud) Pê-đan (pédale) bàn đạp, rất cần cho xe. Màu da ta gọi màu be (beige) Cà-vẹt (carte verte) là giấy xe nè, hở anh? Thắng xe, thì gọi là phanh (frein) Cà-vạt (cravate) nhớ thắt, để thành … đẹp trai. Pít-xin (piscine) là cái hồ bơi. Búp-bê (poupée) bé thích, bé ngồi, bé mơ… Buộc-boa (pourboire) ám chỉ tiền bo. Tích-kê (ticket) là vé, ri-đô (rideau) là màn. Táp-pi (tapis) là tấm thảm sàn. Sinh nhật, nhớ mở nhảy đầm đãng-xê (danser) Đầm dài là cái xoa rê (soirée) Giuýp (jupe) là váy ngắn, nhìn mê không bồ? Xe hơi còn gọi ô tô (auto) Đờ mi (demi): một nửa, bô (beau) là đẹp trai. Đúp (double) thì có nghĩa: gấp hai. Bưu ảnh, là cạc-pốt-tan (carte postale) có hình. Co (corp) là để chỉ thân mình. Đề-pa (départ) mang nghĩa khởi hành đó nha. Tôi thì mình xưng là moa (moi) Còn bạn có nghĩa là toa (toi), là mày. Tiếng Pháp Việt hóa, thật hay. Nhưng không thể viết một ngày mà xong. Chỉ mong đóng góp cộng đồng . Soạn đi soạn lại, vẫn còn nhiều ghê. Thủ quỹ quen gọi két-xê (caissier) Giới thiệu nhà cửa, bởi mê tiền cò (com: commission) Bệnh hoạn, ai lại chẳng lo? Chạy mua thuốc ở tiệm gọi là phạc-ma-xi (pharmacie) Màu xám còn gọi màu ghi (gris) Cục gơm (gomme) để xóa, viết chì để ghi. Con gái tôi, gọi ma-phi (ma fille) Đét-xe (dessert) tráng miệng, ăn khi tiệc tàn. Nhảy đầm, đẹp nhất điệu van (valse). Nhẹ nhàng thanh thoát, chàng nàng say mê. Mỗi sáng một phin (filtre) cà phê (café) Bắt đầu làm việc, không hề quên đâu. In-trô (intro): khúc nhạc dạo đầu. Cam-nhông (camion): xe tải, lơ (bleu): màu xanh xanh. Tiệc tùng khui rượu sâm-banh (champagne). Sô-cô-la (chocolat) đắng, người sành thấy ngon. La-de (la bière) uống giống bia lon. Có người không thích, thì ngồi chê bai. Bia (bière) bọt, chỉ nên lai rai. Uống nhiều bia quá, hao tài, hao phăng (Franc) Tiền thì nhớ bỏ nhà băng (banque) Trai gái sắp cưới, gọi là phi-ăng-xê (fiancé) Mùa hè nắng gắt thấy ghê, Nhớ đeo găng (gants) để bị chê đen thùi. Ăn cơm, ăn xúp (soupe), ăn nui (nouille). Nhớ chan nước xốt (sauce), nhớ mùi rau thơm. Điện tín là tê- lê-gam (télégramme) Vợ tôi thì nói ”ma pham” (ma femme) của mình. Te-ríp (terrible): là chuyện thất kinh. Phi-nan (final): kết thúc… thôi thì… mình xì-tốp (stop) …lun…
Chuyện tử tế ở Sài Gòn : Cơm 1.000 đồng và hoa hồng ngày 8.3
Như thường lệ, nhóm cơm 1.000 đồng vẫn lặng lẽ trao đi những phần cơm giản dị. Nhưng buổi sáng hôm qua lại đặc biệt hơn, mỗi người phụ nữ đến nhận cơm sẽ được tặng một bông hoa nhỏ nhân ngày Quốc tế Phụ nữ 8.3.
Hẻm 525 Tô Hiến Thành, Q.10, TP.HCM sáng nay bỗng rộn ràng hơn. Những cụ già, cô lao công, người bán vé số vui vẻ xếp hàng để nhận một suất cơm kèm một món quà bất ngờ. Một nhành hoa nhỏ nhân ngày 8.3 đã phần nào an ủi họ sau những ngày vất vả bám lấy thành phố mưu sinh.
Có người mân mê cánh hoa như sợ nó úa tàn, có người khẽ cười mà khóe mắt đã ươn ướt. Một ngày 8.3 chẳng lộng lẫy, chẳng xa hoa, nhưng lòng người như ấm hơn giữa con hẻm thân quen.
Những người trao đi yêu thương
Hơn 8 năm qua, nhóm cơm 1.000 đồng đã âm thầm duy trì những bữa ăn nghĩa tình, mang hàng ngàn suất cơm đến bệnh nhân nghèo và những người lao động mưu sinh tại Sài Gòn.
Thành viên nhóm cơm 1.000 đồng và tình nguyện viên đến chuẩn bị các phần cơm từ rất sớm
Với họ, một bữa ăn không chỉ là sự chia sẻ về vật chất mà còn mang theo một chút động viên để những mảnh đời khó khăn có động lực bước tiếp trên hành trình mưu sinh.
Giữa cái nắng sớm của Sài Gòn, ông Vũ Quang Thức (55 tuổi), trưởng nhóm cơm 1.000 đồng tất bật cùng các tình nguyện viên chuẩn bị hơn 400 phần cơm. Công việc này đã trở thành thói quen của họ trong suốt nhiều năm nay. Nhưng sáng 8.3, bên cạnh những hộp cơm nóng hổi còn có thêm những bông hồng rực rỡ.
“Chúng tôi vẫn duy trì trao cơm từ thiện hằng tuần, nhưng hôm nay là ngày 8.3, anh em trong nhóm muốn làm một điều gì đó đặc biệt hơn cho những người phụ nữ đang ngày ngày vất vả mưu sinh”, ông Thức chia sẻ.
Những cụ bà hạnh phúc khi được nhận bông hồng nhân ngày 8.3
ẢNH: HOÀI NHIÊN
Ông Thức tâm sự rằng, nhóm không chỉ trao đi những phần cơm mà còn mong muốn mang đến sự ấm áp trong tâm hồn cho những người phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn.
“Quà cáp ngày 8.3 đâu chỉ dành riêng cho những người phụ nữ đủ đầy. Những người phụ nữ có hoàn cảnh thiếu thốn, nếu không được ai nhớ đến thì sẽ chạnh lòng lắm. Chúng tôi chỉ mong giữa những bộn bề lo toan, họ cũng cảm nhận được một chút ấm áp, một chút yêu thương”.
Chúng tôi tình cờ gặp ông Đào Thanh Tùng (60 tuổi, ở P.Tân Thới Nhất, Q.12) khi ông cùng con gái đến tham gia hoạt động. Là tài xế xe ôm công nghệ, mỗi tuần ông Tùng đều cố gắng sắp xếp thời gian đến phụ phát cơm cho bà con.
Ông Tùng và con gái đến địa chỉ cơm 1.000 đồng từ sáng sớm
“Tôi biết đến công việc này qua nhiều anh em. Thấy ý nghĩa nên tôi quyết định tham gia ngay. Mỗi tuần, cứ đến sáng thứ ba, thứ bảy và chiều thứ năm là tôi có mặt để phụ phát cơm. Xong việc, tôi lại tiếp tục chạy xe để kiếm tiền nuôi con,” ông Tùng tâm sự.
Kế bên ông là cô con gái nhỏ Nguyễn Đào Mỹ Hòa (11 tuổi) đang cầm một bông hồng trên tay. Đã quen với hoạt động này, em nhanh nhẹn giúp các cô chú bỏ cơm vào hộp, lễ phép cúi đầu trao cơm cho bà con.
Cũng có mặt trong buổi phát cơm sáng 8.3, bà Nguyễn Thị Phương Dung (61 tuổi, ở P.Cầu Kho, Q.1) đã gắn bó với hoạt động này hơn 1 năm.
Vừa múc cơm vào hộp, bà nở một nụ cười hiền hậu: “Càng làm, tôi càng thấy mình hạnh phúc hơn mỗi ngày. Đây là một hoạt động rất nghĩa tình, giúp cho những người vô gia cư, những người xa quê lên thành phố mưu sinh có bữa cơm ấm lòng”.
Bên cạnh bà Dung là những tình nguyện viên trẻ tuổi đang bận rộn trao cơm, cẩn thận đặt từng bông hoa vào tay người nhận. Một bạn trẻ nở nụ cười, nói với một cụ bà vừa cầm hộp cơm: “Hôm nay là ngày 8.3, con tặng bà một bông hoa nè, chúc bà luôn vui vẻ và khỏe mạnh ạ”.
Nhóm tình nguyện viên hào hứng tham gia hoạt động thiện nguyện
ẢNH: HOÀI NHIÊN
Em Trần Phương Linh (học sinh lớp 10, Trường THPT Trần Quang Khải, Q.11) cùng nhóm bạn đến đây từ sớm. Các em phụ cô chú cho cơm vào hộp, đóng gói cẩn thận và trao tận tay cho những người có hoàn cảnh khó khăn.
Em Linh bày tỏ: “Hoạt động ngày hôm nay càng thêm ý nghĩa khi các cô, các bà được tặng một bông hồng. Em rất vui vì thấy nụ cười của các cô”.
Niềm vui nhỏ trong ngày 8.3
Ở góc hàng dài chờ nhận cơm, bà Trần Thị Nhung (80 tuổi, ở P.6, Q.11) cẩn thận nâng niu bông hồng trong tay. Nụ cười tươi hiện rõ trên gương mặt nhăn nheo của cụ.
Bà Nhung nghẹn ngào khi nhận được hoa hồng trong ngày 8.3
Đã nhiều năm nay, bà Nhung mưu sinh bằng nghề bán vé số dạo, ngày ngày rong ruổi phố phường để kiếm tiền nuôi thân.
“Lâu lắm rồi tôi mới được nhận hoa, chắc từ hồi còn trẻ. Hồi đó khổ, làm gì có ai tặng hoa. Giờ già rồi, ai mà ngờ được tặng bông hoa đẹp thế này trong ngày 8.3”, bà Nhung nghẹn ngào nói.
Cô Nguyễn Thị Hạnh (50 tuổi, ở P.2, Q.10), lao công quét rác ở gần đó bày tỏ sự hạnh phúc khi nhận được món quà bất ngờ. Cầm nhành hoa trong tay, cô bỗng chốc như quên đi những mệt mỏi thường ngày.
Các cụ, các bà bất ngờ vì được tặng bông hồng ngày Quốc tế Phụ nữ 8.3
ẢNH: HOÀI NHIÊN
“Cả đời mình chỉ quen với chổi, với xe rác, có ai tặng hoa bao giờ đâu. Hôm nay được nhận bông hoa này, tự dưng thấy vui, thấy mình cũng có một ngày 8.3 đúng nghĩa”, bà Hạnh nói.
Cùng chồng đi bộ đến nhận cơm, bà Nguyễn Thị Thúy (60 tuổi, ở P.9, Q.10) bày tỏ sự bất ngờ khi nhận được một bông hồng vào ngày 8.3. Nhận bông hoa từ tay các tình nguyện viên, bà thoáng ngạc nhiên, rồi nhẹ nhàng thắt chặt trong tay.
Bà kể, chồng bà bị khiếm thị đã nhiều năm, cả hai vợ chồng già yếu không thể đi làm, nhờ vào những bữa cơm thiện nguyện mà vơi đi bớt gánh nặng cơm áo gạo tiền.
Hai vợ chồng bà Thúy hạnh phúc vì được các ân nhân quan tâm
“Ngày nào đến đây nhận cơm cũng thấy vui rồi. Hôm nay lại có cả hoa nữa thì đúng là không ngờ. Được tặng một bông hoa thế này, tôi thấy ấm lòng lắm. Cảm ơn các ân nhân đã giúp đỡ vợ chồng tôi”, bà Thúy bày tỏ.
Những phần cơm 1.000 đồng, những bông hoa bé nhỏ tưởng như chẳng đáng bao nhiêu giữa một thành phố sôi động và đắt đỏ. Nhưng trong con hẻm nhỏ ấy, chúng đã mang đến cho những người phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn một niềm vui thật sự.
Những bông hồng tươi thắm góp phần tô điểm thêm những nụ cười rạng rỡ
ẢNH: HOÀI NHIÊN
Sáng 8.3 trôi qua, con hẻm 525 Tô Hiến Thành, Q.10, TP.HCM lại trở về với nhịp sống thường ngày. Nhưng có lẽ, những người phụ nữ ấy sẽ mang theo chút ấm áp của một ngày đặc biệt.
Không chỉ là một bông hoa, điều họ nhận được hơn hết là sự trân trọng của cộng đồng xã hội dành cho mình. HOÀI NHIÊN
Sài Gòn nghĩa tình: ‘Kỳ nữ’ Kim Cương sống cho người và cho thành phố hạnh phúc
Không chỉ nổi danh vì dành trọn cả cuộc đời cho sân khấu cải lương và kịch nói, NSND Kim Cương còn là một nghệ sĩ tận tâm, khát khao mãnh liệt được sẻ chia và giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh.
Có lẽ đã không ai xa lạ với “kỳ nữ” Kim Cương cũng như nhân vật kinh điển “cô Diệu” mà bà thủ vai trong vở kịch Lá sầu riêng do chính bà là soạn giả. NSND Kim Cương là người đặc biệt góp phần tạo nên tuổi thơ của nhiều người.
Chắc hẳn nhiều khán giả mê cải lương và kịch nói miền Nam cho đến giờ vẫn không quên được câu chuyện về tình mẫu tử vô bờ bến trong vở kịch Lá sầu riêng, nhất là khi bà mẹ nghèo tên Diệu răn dạy con trai về đạo hiếu của trí thức.
Tôi say mê đọc thơ Bùi Giáng và hiểu về mối tình sâu nặng ông dành cho “kỳ nữ” Kim Cương suốt mấy chục năm. Tôi cũng biết đến vở kịch Bông hồng cài áo được sân khấu Hoàng Thái Thanh tái diễn cũng dựa trên kịch bản của bà.
Đặc biệt, tôi càng trân trọng hơn khi biết bà luôn tận tâm làm thiện nguyện, trăn trở về cuộc sống của những nghệ sĩ nghèo.
Cho đến một ngày, vị nghệ sĩ gạo cội ngồi trước mặt tôi trong nhà riêng ở Q.Phú Nhuận (TP.HCM). Vận một bộ quần áo đời thường, để mái tóc đánh phồng và cài băng đô, NSND Kim Cương xuất hiện và không son phấn điểm trang, xúng xính xiêm y như mỗi khi bà lên sân khấu.
Bà hỏi vui: “Liệu các ký giả này có thể ‘rút ruột’ được tôi hay không?”.
Tôi đã trò chuyện với bà hơn 3 tiếng đồng hồ, với những câu chuyện đan xen, cắt vụn, vì thỉnh thoảng bà phải nhướng trí nhớ của mình cho các sự kiện cũ.
Loạt bài mong muốn khắc họa những con người thuộc nhiều tầng lớp, tôn giáo khác nhau (trong đó có những tấm gương được Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM giới thiệu để bình chọn 50 cá nhân tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển TP.HCM giai đoạn 1975 – 2025) nhưng đều chung tấm lòng nhân ái, sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ những mảnh đời thiếu may mắn, cần sự cưu mang, chia sẻ.
Bằng những nghĩa tình, họ dìu nhau qua cuộc sống và cùng nhau góp phần dựng xây nên một Sài Gòn – TP.HCM luôn phát triển, bao dung, ấm áp và tràn đầy yêu thương cho tất cả những ai đến vùng đất này.
Sân khấu phải gắn với cuộc đời
NSND Kim Cương sinh năm 1937, đã đi qua những giai đoạn lớn của đất nước.
Xuất thân từ một gia đình có 4 đời theo nghệ thuật, NSND Kim Cương lần đầu tiên xuất hiện trên sân khấu khi mới 18 ngày tuổi, vào vai con của Thị Mầu trong vở Quan Âm Thị Kính, rồi tiếp tục diễn trong Na Tra lóc thịt năm lên 7.
Bà kể rằng ban đầu gia đình không muốn bà theo nghệ thuật vì nghề này còn “bạc bẽo”. Má bà, cố NSND Bảy Nam, đã dành cho sân khấu “sự yêu thương tột độ” lẫn “nỗi kinh sợ tột cùng”.
NSND Kim Cương năm 19 tuổi (ảnh trái) và “cô Diệu” trong vở Lá sầu riêng
Bà được gửi đi học ở trường dòng suốt 10 năm ròng. Mãi đến năm 19 tuổi, khi tình cờ trở lại đoàn hát ở Châu Đốc, bà xuất hiện trên sân khấu rồi liên tục được khán giả yêu cầu hát liên tiếp 3 bài. Thì bấy giờ, má bà mới thấy tràng vỗ tay nồng nhiệt của khán giả mà cho bà theo nghiệp sân khấu.
Sau này, bà chuyển từ cải lương sang thoại kịch (kịch nói). Lý do, NSND Kim Cương nói mình phải “tìm một lối đi riêng”, thẳng thắn truyền đạt những giá trị mà tác phẩm muốn nói với khán giả, đặc biệt là khai thác hết thảy sự giản dị và tinh thần “tứ hải giai huynh đệ” của người miền Nam.
Năm 2006, Sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận bà là người sáng tác kịch nói nhiều nhất. Những vở như Lá sầu riêng, Dưới hai màu áo, Trà hoa nữ, Bông hồng cài áo… của NSND Kim Cương ra đời và được lòng công chúng. Bà khiêm tốn khẳng định tất thảy đều nhờ sự khích lệ của khán giả và báo chí.
NSND Kim Cương (vai Điêu Thuyền) và NSƯT Bảo Quốc (vai Đổng Trác) trong trích đoạn Phụng Nghi ĐìnhTrích đoạn của vở kịch Lá sầu riêng, có sự góp mặt của nghệ sĩ Hồng Nga, Mỹ Chi và Diễm Kiều
Đối với NSND Kim Cương, sân khấu mà bà tận tụy hiến dâng mang sứ mệnh làm đẹp cho đời, gắn liền với cuộc đời.
Bà dẫn lại một lời răn: “Làm một thầy thuốc dở, chết một mạng người. Làm một người lãnh đạo dở, chết một nước. Làm một người văn hóa dở, chết cả một thế hệ”.
Bà nghiêm túc với sân khấu và cho rằng tác phẩm nào của người nghệ sĩ cũng cần có nội dung, truyền tải một giá trị, và tiên phong đi đầu để hướng công chúng tới những gì cao đẹp.
Sống cho người dễ hơn sống cho mình
Nổi danh với sân khấu là vậy, nhưng người ta còn biết ở “kỳ nữ” Kim Cương hình ảnh của một người nghệ sĩ xông xáo, luôn mưu cầu mang lại hạnh phúc cho người khác.
Không rõ tư duy sống cho phải đạo – đạo đời có phải là nguyên nhân đưa lối bà miệt mài với lĩnh vực thiện nguyện hay không, nhưng bà luôn tạ ơn và tự nhủ thầm phải sống có lễ độ, lễ phép với cuộc đời.
NSND Kim Cương trong một sự kiện của chương trình phẫu thuật đem lại ánh sáng cho bệnh nhân nghèo bị đục thủy tinh thể ở Rạch Giá, Kiên Giang
Bà gắn bó với Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo TP.HCM từ những ngày đầu hội thành lập (1994). Hơn 30 năm qua, hội đã có nhiều chương trình từ thiện như “Đem lại ánh sáng cho bệnh nhân nghèo bị đục thủy tinh thể” với hơn 700.000 ca mổ mắt, “Cứu giúp trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh” (10.000 ca), vá môi, hở hàm ếch cho hơn 38.300 trẻ.
Năm 1998, bà cùng đứng ra thành lập Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi TP.HCM, làm nhiều chương trình, từ trao tặng hàng chục ngàn xe lăn cho tới hỗ trợ học bổng cho các em hiếu học…
NSND Kim Cương tại Trường Phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu
Nhưng NSND Kim Cương không tự cho phép mình ngơi nghỉ. Bà nói càng làm thiện nguyện thì càng thấy thiếu.
Khi được hỏi suy nghĩ về vai trò của nghệ sĩ trong việc lan tỏa những giá trị tích cực cho cộng đồng, NSND Kim Cương bảo mình khó cắt nghĩa. Nhưng bà nhớ lại những trải nghiệm sâu sắc đã giúp mình thấm thía trách nhiệm thiêng liêng của người nghệ sĩ trong các hoạt động xã hội.
Như lần xảy ra vụ sập cầu Cần Thơ (năm 2007), bà vội vã đến hiện trường mà chưa biết liệu sự có mặt của mình có thể giúp ích gì. Nhưng khi đến nơi, một người vợ mất chồng trong vụ tai nạn nhìn thấy bà, liền ôm chầm lấy bà, bật khóc nức nở và nói rằng chồng cô rất yêu thích vở Lá sầu riêng. Khoảnh khắc ấy, bà chợt nhận ra: đôi khi, chỉ cần có mặt cũng đã mang lại ý nghĩa. Bà có thể sẻ chia, giúp vơi bớt nỗi đau trong cuộc đời của người khác.
Và rồi bà có hạnh phúc. Niềm vui đến từ sự đồng cảm là vậy. Bà nói mình vẫn như “con thoi, hạnh phúc với những chuyến đi về”.
NSND Kim Cương đặc biệt nhấn mạnh đến hai chương trình mà bà có nhiều trải nghiệm khó quên, đó là tổ chức đám cưới cho hơn 90 cặp khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn và khởi xướng chương trình “Nghệ sĩ tri âm” vào năm 2015.
NSND Kim Cương tổ chức đám cưới cho các cặp đôi khuyết tật
Bà luôn cảm thấy ray rứt đời sống của người nghệ sĩ và trong thâm tâm luôn tự nhủ “làm điều gì đó để an ủi, chia sớt nỗi buồn của anh em”.
Bà chia sẻ: “Tôi trăn trở, vì có bao nhiêu người đã chấp nhận cái nghề từng bị cho là “xướng ca vô loài”, hy sinh cả tâm hồn, sức khỏe, lời ca tiếng nói của mình cho công chúng và sân khấu nước nhà. Người nghệ sĩ như con thiêu thân, không gây được cái gì lâu dài, đi diễn rày đây mai đó, rồi khi về già không chỉ chật vật mưu sinh, đối đầu với bệnh tật mà còn khoắc khoải tự hỏi khán giả còn nhớ tới mình hay không”.
Chương trình Nghệ sĩ tri âm năm 2018
Vì vậy, NSND Kim Cương luôn mong đời sống của người nghệ sĩ được quan tâm và chăm sóc nhiều hơn. Bà cũng hy vọng ngày càng có nhiều người tiếp nối, gìn giữ và phát huy giá trị của sân khấu miền Nam.
Bà tin rằng điều đó sẽ giúp thành phố này trở nên sâu đậm, giàu tình nghĩa hơn, và con người sống vì nhau nhiều hơn. Bởi theo bà, “sống cho người rất dễ, nhưng sống cho mình thì khó khăn, vì mình phải tính toán thiệt hơn”.
NSND Kim Cương lì xì cho các em ở Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp cho người khuyết tật và trẻ mồ côi TP.HCM, dịp Vua bếp Martin Yan (Yan Can Cook) đến thăm đơn vị hồi tháng 2.2024
NSND Kim Cương là một tượng đài của sân khấu Việt Nam. Bà nổi danh từ trước năm 1975 với vai trò diễn viên kịch nói, diễn viên điện ảnh, soạn giả, biên kịch và là Trưởng đoàn Kịch nói Kim Cương.
Sau năm 1975, bà tiếp tục cống hiến cho nghệ thuật và công tác xã hội, dành nhiều tâm huyết cho các hoạt động từ thiện và giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Với những cống hiến to lớn cho nghệ thuật và xã hội, Kim Cương được phong tặng danh hiệu NSƯT vào năm 1988 và NSND vào năm 2011.
Hồi giữa tháng 3.2025, bà có mặt trong danh sách bình chọn 50 cá nhân tiêu biểu, có nhiều thành tích, sáng tạo và đóng góp quan trọng trong chặng đường 50 năm xây dựng và phát triển TP.HCM.
Sài Gòn nghĩa tình: Trước Bệnh viện Nhi đồng 1 có ‘bánh mì của dì Bích Nga dòng Thánh Phaolô Sài Gòn’
Nằm đối diện Bệnh viện Nhi đồng 1 (Sài Gòn), giáo xứ Bắc Hà (ở 419 Lý Thái Tổ, P.9, Q.10) mỗi sớm thứ tư lại thoang thoảng hương thơm của những ổ bánh mì mới ra lò.
Gần 5 giờ sáng, khi bầu trời còn phủ một màu lam thẫm tĩnh mịch, nhóm Bánh mì của dì đã tất bật chuẩn bị 300 phần bánh mì miễn phí cho thân nhân bệnh nhi.
Chừng một lúc sau, trước cổng giáo xứ đã lác đác bóng người. Họ là cha mẹ, ông bà của những em nhỏ đang điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng 1. Có người trắng đêm chăm con ở bệnh viện, có người lặn lội từ quê lên thành phố từ đêm qua. Ai nấy đều lộ vẻ phờ phạc sau một đêm dài đằng đẵng.
Loạt bài mong muốn khắc họa những con người thuộc nhiều tầng lớp, tôn giáo khác nhau (trong đó có những tấm gương được Ủy ban MTTQ Việt Nam Sài Gòn giới thiệu để bình chọn 50 cá nhân tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển Sài Gòn giai đoạn 1975 – 2025) nhưng đều chung tấm lòng nhân ái, sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ những mảnh đời thiếu may mắn, cần sự cưu mang, chia sẻ.
Bằng những nghĩa tình, họ dìu nhau qua cuộc sống và cùng nhau góp phần dựng xây nên một Sài Gòn – Sài Gòn luôn phát triển, bao dung, ấm áp và tràn đầy yêu thương cho tất cả những ai đến vùng đất này.
Mong bà con đỡ khổ phần nào
Người đứng sau hoạt động Bánh mì của dì là sơ Bích Nga (55 tuổi). Tháng 3 năm trước, khi vào thăm bệnh nhi tại khoa Nhiễm, Bệnh viện Nhi đồng 1, sơ đã bắt gặp cảnh tượng nhiều người thân ngồi chật kín 2 bên hành lang với vẻ mặt mệt mỏi sau những giờ chăm sóc con.
Nhóm Bánh mì của dì có mặt từ sớm để chuẩn bị những phần ăn sáng cho người thân của bệnh nhi
“Nhìn thấy hình ảnh những người ba, người mẹ lặng lẽ chia nhau những phần bánh mì nguội, lòng tôi nặng trĩu lắm. Những đêm dài, tôi không ngủ được vì nỗi trăn trở, tôi muốn làm một điều gì đó để giúp họ có một bữa sáng đầy đủ, để có sức mà chăm con”, sơ Bích Nga nhớ lại, giọng nói chậm rãi mà ánh mắt thì đau đáu một nỗi niềm.
Sơ chia sẻ rằng, hơn 10 mấy năm nay, quanh khu vực Bệnh viện Nhi đồng 1 chỉ có phát cơm miễn phí vào buổi trưa, rất hiếm khi có điểm tâm sáng. Những gia đình từ các tỉnh xa lên thành phố chữa bệnh thường phải dậy sớm để lo cho con, nhiều người vì tiết kiệm mà nhịn đói hoặc chỉ ăn qua loa cho qua bữa.
“Không nơi nào khổ bằng bệnh viện đâu con. Người giàu thì còn có tiền ăn sáng, còn người nghèo thì họ nhịn cho con. Tôi chỉ mong cầu hoạt động này được nhiều ân nhân giúp đỡ, để bà con mình đỡ khổ đi phần nào”, sơ ngậm ngùi nói.
Sơ Bích Nga tận tình trao bánh mì, sữa, nước cho người nhà của bệnh nhi
Sở dĩ hoạt động mang tên Bánh mì của dì là có nguyên nhân. Sơ Bích Nga mong muốn, khi đến nhận bánh mì, bà con đều cảm thấy gần gũi, thân thương. Hình ảnh “dì” gợi lên tình cảm ấm áp, như người thân trong gia đình luôn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.
Từ tờ mờ sáng, 2 vợ chồng ông Trần Văn Hưng (58 tuổi, ở P.2, Q.10) đã có mặt tại giáo xứ.
Vừa thêm trứng, chà bông, rau ngò vào từng ổ mì nóng hổi, ông nói: “Cả 2 vợ chồng tôi chỉ đang làm những việc bình thường, chỉ mong chí ít đem lại niềm vui cho những người có con cái đang nằm viện”.
Nói rồi, ông Hưng tiếp tục cho những ổ bánh mì vào bọc, cẩn thận sắp xếp từng phần ngay ngắn. Những chiếc bánh sau khi hoàn thiện được ông cùng các tình nguyện viên mang ra trước nhà thờ để chờ bà con đến nhận.
Bà Nguyễn Thị Mai Thy (50 tuổi, ở P.Tân Phú, Q.Tân Phú) là thành viên của nhóm Bánh mì của dì gần 1 năm. Bà nói, bà đã đến tuổi nghỉ hưu, chỉ mong đến ngày được đến nhà thờ để trao bánh mì cho bà con.
Những ổ bánh mì nóng hổi được các tình nguyện viên chuẩn bị
“Từ khi tham gia hoạt động, tôi thấy mình hình như trẻ ra. Tôi thấy mình cũng còn có ích lắm”, bà cười giòn giã.
Từng ổ bánh mì trao đi, bà không quên hỏi han tình hình sức khỏe của các em và động viên gia đình vững lòng để chăm lo cho con mình.
Kế bên bà Thy là một người phụ nữ trung niên đang chuẩn bị những phần sữa, nước cho bà con. Bà là Hồ Thị Thúy Liễu (60, P.14, Q.10), nhà tài trợ của hoạt động.
Bà Liễu có cơ duyên với hoạt động nhờ lời giới thiệu từ một người bạn thân. Không những tài trợ một phần cho hoạt động, bà Liễu còn là một thành viên rất tích cực.
“Tôi nghĩ mình may mắn hơn nhiều người nên muốn san sẻ phần nào đó cho những ai còn chật vật. Mỗi lần nhìn bà con nhận những phần thiết thực, tôi thấy lòng mình ấm áp và hạnh phúc hơn”, bà tâm sự.
Ấm lòng ổ Bánh mì của dì
Đến nhận bánh mì từ sáng sớm, ông Nguyễn Hoàng Minh Phương (60 tuổi, quê ở Tiền Giang) cho biết, ông đang một mình chăm cháu nội bị bệnh suy hô hấp (hội chứng suy phổi) tại Bệnh viện Nhi đồng 1 (Sài Gòn).
Ba mẹ cháu đều đau ốm, phải nằm viện ở quê nên mọi việc chăm sóc cháu dồn lên vai ông. “Ở viện, tiền thuốc thang, tiền sinh hoạt đủ thứ phải lo. Được nhận những phần bánh mì, kèm sữa, nước đầy đủ thế này, tôi mừng lắm”, ông Phương chia sẻ.
Cũng từ Tiền Giang lên TP.HCM, bà Nguyễn Thị Bích Tiền (66 tuổi) đang ngày đêm túc trực chăm cháu nội bị viêm màng não.
Những phần ăn sáng nghĩa tình được trao cho bà con
ẢNH: HOÀI NHIÊN
Cháu yếu quá nên phải chuyển từ bệnh viện ở quê lên tuyến trên để theo dõi đặc biệt. Những ngày trôi qua ở bệnh viện khiến bà chật vật với bao nỗi lo về chi phí.
“Lên đây rồi mới thấy, người có tiền hay không đều khổ. Thuốc men, tiền phòng, cơm nước mỗi ngày đều là nỗi lo. May mà có ổ bánh mì miễn phí của sơ nên tôi cũng bớt lo đi phần nào”, bà nói, đôi tay chai sạn nắm chặt phần bánh vừa nhận được.
Trong số những người đều đặn đến nhận bánh mì, có bà Nguyễn Thị Nhanh (69 tuổi, ở Bạc Liêu). Từ khi cháu bệnh, bà phải tạm gác mọi việc ở quê để lên thành phố lo liệu.
Mỗi ngày, bà chắt chiu từng đồng cho thuốc men và các chi phí sinh hoạt: “Khó khăn lắm, tôi không dám mua gì ăn vì còn để dành tiền lo cho cháu. Nhờ có những phần ăn này mà tôi tiết kiệm được chút ít”.
Ngồi một góc trước cổng nhà thờ, chị Lê Thị Trúc Linh (29 tuổi, quê ở Trà Vinh) rơm rớm nước mắt khi nhắc đến hoàn cảnh gia đình mình. Vợ chồng chị làm công nhân ở Bình Dương, mỗi tháng lương chỉ hơn 5 triệu đồng, phải chi trả đủ thứ từ tiền trọ 1,7 triệu đồng đến sinh hoạt phí.
Chị vừa sinh thai đôi, cả 2 bé đều yếu nên phải nhập viện theo dõi. Vì phải túc trực chăm con nên bị công ty cho thôi việc.
“Chồng tôi vẫn đi làm để đóng viện phí, còn tôi ở đây chăm con đã gần một tháng. Sáng nào tôi cũng tranh thủ sang đây nhận phần ăn sáng để đỡ đi một phần chi phí”, chị kể.
Anh Sang ôm con từ Đồng Tháp lên thành phố chữa bệnh
Ở cuối dãy hàng, chúng tôi gặp anh anh Phạm Công Sang (38 tuổi, quê ở Đồng Tháp) đang bồng con trên tay. Anh ngậm ngùi nói, bé nhà anh mới 7 tháng rưỡi nhưng đã mắc bệnh tim bẩm sinh.
Ở quê, anh làm đủ nghề để nuôi con, từ vác lúa đến gánh cá, ai thuê gì anh cũng nhận. “Lên đây rồi mới thấy chi phí đắt đỏ gấp nhiều lần ở quê. Nhưng con còn nhỏ, bệnh lại nặng quá, tôi chỉ biết gắng sức lo cho con”, anh nghẹn ngào.
Gương mặt sạm nắng của người đàn ông lam lũ giãn ra khi cầm trên tay phần bánh mì còn ấm. Với anh, mỗi phần quà là một niềm an ủi lớn lao giữa hành trình gian nan chữa bệnh cho con.
Giữa lòng TP.HCM náo nhiệt, vẫn luôn có những con người lặng lẽ gieo mầm yêu thương. Những ổ bánh mì nóng hổi của sơ không chỉ giúp những người cha, người mẹ vơi bớt nhọc nhằn, mà còn là sự động viên để họ có thêm sức mạnh vượt qua những ngày gian khó, tiếp tục hành trình chăm con nơi bệnh viện.
Thành phố này bao đời nay vẫn vậy – luôn nghĩa tình, bao dung, sẵn sàng mở rộng vòng tay giúp đỡ những ai cần. Và khi mặt trời nhô lên cao, những bước chân nặng trĩu lại lặng lẽ rời đi, mang theo bao lo toan, nhưng cũng vơi bớt phần nào gánh nặng nhờ những tấm lòng nhân ái.
Có lẽ, sâu thẳm trong trái tim họ đã ấm áp hơn, bởi ở thành phố này, luôn có những con người nghĩa tình, sẵn sàng sẻ chia, nâng đỡ nhau vượt qua những ngày tháng nhọc nhằn nhất. Hoài Nhiên
Đều đặn mỗi tháng 2 lần, chị Hoa và anh Phước lại thức xuyên đêm để chuẩn bị 150 ổ bánh mì chay không 0 đồng dành cho sinh viên và người lao động khó khăn ở khu vực phường Linh Xuân, TP.Thủ Đức.
Những chiếc bánh mì chay nóng hổi được vợ chồng chị Cao Thị Hồng Hoa (46 tuổi) và anh Hoàng Phước (31 tuổi) trao tặng tại địa chỉ 131/41 đường số 6 (phường Linh Xuân, TP.Thủ Đức) mỗi ngày rằm và mồng 1 mỗi tháng.
Cách đây 2 năm, vợ chồng chị Hoa từng được biết đến qua bài viết Chuyện tình ‘đũa lệch’: Sự cảm phục san bằng khoảng cách… 15 năm trên Báo Thanh Niên. Câu chuyện tình yêu của hai người đã làm rung động biết bao trái tim độc giả.
Chị Hoa và anh Phước đến với nhau vì tình yêu âm nhạc, nhưng tình yêu của họ không chỉ dừng lại ở những giai điệu mà còn lan tỏa vào từng hành động ý nghĩa dành cho cộng đồng. Tuy chênh lệch 15 tuổi nhưng với anh chị, khoảng cách đó lại chính là gia vị cho cuộc hôn nhân thêm hạnh phúc, thấu hiểu.
Loạt bài mong muốn khắc họa những con người thuộc nhiều tầng lớp, tôn giáo khác nhau (trong đó có những tấm gương được Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM giới thiệu để bình chọn 50 cá nhân tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển TP.HCM giai đoạn 1975 – 2025) nhưng đều chung tấm lòng nhân ái, sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ những mảnh đời thiếu may mắn, cần sự cưu mang, chia sẻ.
Bằng những nghĩa tình, họ dìu nhau qua cuộc sống và cùng nhau góp phần dựng xây nên một Sài Gòn – TP.HCM luôn phát triển, bao dung, ấm áp và tràn đầy yêu thương cho tất cả những ai đến vùng đất này.
Ấm áp ổ bánh mì nghĩa tình
Vợ chồng chị Hoa hiện đang kinh doanh quán cà phê, bán tranh gỗ, đồ trang trí handmade và mở một phòng trà nhỏ ở TP.Thủ Đức (TP.HCM). Năm 2019, họ gặp gỡ, yêu thương và quyết định về chung một nhà sau 4 tháng tìm hiểu. Dù sự chênh lệch tuổi tác khá lớn và không nhận được sự ủng hộ từ gia đình, bạn bè ở thời gian đầu nhưng cả hai vẫn quyết định ở bên nhau.
Vợ chồng chị Hoa chuẩn bị nguyên liệu từ chiều hôm trước ngày phát bánh mì
ẢNH: NVCC
Trước khi gặp anh Phước, chị Hoa từng lập gia đình và có 2 con. Chị là một người phụ nữ mạnh mẽ, từng trải, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ yêu và cưới một chàng trai trẻ trung, đam mê ca hát như anh Phước. Nhưng rồi, chính âm nhạc đã kết nối hai tâm hồn, đưa họ đến bên nhau. Phía anh cũng cảm mến chị từ ngày đầu vì sự bản lĩnh, độc lập, tài giỏi.
Sau nhiều năm gắn bó, đến cuối năm 2023, vợ chồng chị Hoa quyết định chuyển sang ăn chay trường. “Chúng tôi luôn tìm thấy ở nhau nhiều điểm chung, có thể dễ dàng thấu hiểu, chia sẻ. Tôi không chỉ xem anh ấy là chồng mà đó còn là một người bạn, người đồng hành, người tri kỷ. Cả hai đều hướng tâm theo Phật pháp nên quyết định cùng nhau ăn chay trường để tu tâm dưỡng tính, góp thêm chút thiện lành cho cuộc đời”, chị Hoa chia sẻ.
Vợ chồng chị Hoa và anh Phước chuẩn bị bánh mì chay lúc 5 giờ sáng
Nói về dự án bánh mì chay 0 đồng, chị Hoa cho biết: “Tất cả giống như duyên lành”.
Bồi hồi nhớ lại, chị kể rằng trước cổng nhà, chị có treo bảng đề dòng chữ: “Phần lớn mọi người không bao giờ sống trọn vẹn được thực tại, bởi trong vô thức họ luôn tin rằng khoảnh khắc tiếp theo luôn quan trọng hơn chính khoảnh khắc này. Và thế là họ lỡ mất cả cuộc đời”.
Một tối muộn, chị ra trước sân hóng gió thì bắt gặp một người phụ nữ nhặt ve chai đứng ngắm nghía dòng chữ đó khá lâu.
Hỏi ra mới biết, chị nhặt ve chai ấy đang học thuộc để về đọc cho các chị em trong phòng trọ cùng nghe.
“Khoảnh khắc đó, tôi đã quyết định làm một việc đã ấp ủ mấy năm nay, cứ chờ khi mình đủ điều kiện để làm thì sẽ làm. Nhưng đợi thì đến biết khi nào nếu chẳng may vô thường đến… Suy nghĩ này nó như âm ỉ cháy trong tôi mỗi ngày từng ấy thời gian kể từ khi về nhà dịp Covid-19. Và tôi quyết định không đợi nữa”, chị Hoa nói.
Những ổ bánh mì chay thơm ngon, nhân bên trong đầy đặn
Từ hôm đó, chị Hoa bắt đầu vận động, rủ rê những người bạn thân của mình tham gia dự án bánh mì chay 0 đồng. Hiện nhóm có tổng cộng 18 người, đóng góp dựa trên khả năng. Riêng vợ chồng chị Hoa thì là chủ lực trong chi phí và chuẩn bị bánh mì chay tặng cho bà con mỗi tháng.
“Trước ngày phát bánh, vợ chồng tôi thức đêm để chuẩn bị nguyên liệu, làm nhân, nước sốt. 5 giờ sáng, anh Phước sẽ chạy ra lò mua 150 bánh mì rồi cho nhân vào, đến 6 giờ 30 thì bắt đầu phát. Có khi tôi chạy xe đến tận chợ đầu mối để mua được nguyên liệu tươi ngon với giá rẻ hơn một chút, mong sao bà con khi ăn bánh mì có thể ngon miệng, hạnh phúc. Còn nhóm chúng tôi thì có kinh phí để duy trì lâu dài”, chị Hoa tâm sự.
Chị Hoa phát bánh mì chay trước cổng nhà
ẢNH: THÁI THANH
Vừa cặm cụi bỏ nhân vào bánh mì, anh Phước vừa nói: “Nhiều lúc tôi giận vợ vì cô ấy ôm đồm quá nhiều việc vào người. Tuổi tác ngày càng lớn nên cũng đủ thứ bệnh, đã vậy còn hay thức đêm để làm việc. Nhưng nói vậy thôi chứ thấy vợ làm một mình cũng không đành lòng, thế là hai vợ chồng làm cùng nhau trong mọi việc. Tôi rất hạnh phúc khi được cùng vợ làm bánh mì tặng cho mọi người”.
Sự tử tế là bí quyết cho hôn nhân bền vững
Trực tiếp chứng kiến vợ chồng chị Hoa phát bánh mì, chúng tôi không khỏi xúc động trước nụ cười hạnh phúc của bà con.
Chị Muội (53 tuổi, ở TP.Thủ Đức) chia sẻ, chị thường xuyên đến nhận bánh mì chay của chị Hoa. Chị cảm nhận bánh mì giòn, thơm, nhân bên trong đầy đặn. Bản thân chị thấy biết ơn khi được nhận một phần ăn sáng ấm áp, nghĩa tình như thế.
Với vợ chồng chị Hoa, bí quyết để có một cuộc hôn nhân bền vững, không chỉ là sự sẻ chia, lắng nghe, đồng cảm mà còn là sự tử tế. Tử tế ở đây chính là tử tế với gia đình, đôi bên tử tế với nhau và tử tế với những người xung quanh.
Ngoài phát bánh mì ở nhà, chị Hoa còn mang đi phát ở khu vực chợ gần nhà
ẢNH: THÁI THANH
Anh Phước bộc bạch: “Từ ngày ăn chay, tôi thấy lòng mình nhẹ nhàng lắm. Cuộc sống của chúng tôi rất đơn giản, từ ăn uống, mua sắm, sinh hoạt, mọi thứ đều rất tối giản. Tiền bạc để dành lo cho ba mẹ và hai đứa nhỏ được đầy đủ. Tôi mong rằng sau này già đi có thể cùng vợ về quê, trồng rau, trồng hoa và sống cùng âm nhạc mỗi ngày. Vậy nên bây giờ, chúng tôi muốn được làm chút gì đó có ích cho cuộc đời”.
Nắm chặt tay chồng, chị Hoa bày tỏ rằng có những ngày mệt mỏi, chồng chị sẵn sàng làm hết mọi việc để chị được nghỉ ngơi. Những điều nhỏ như vậy làm chị càng yêu thương và trân trọng anh hơn. Ngoài việc phát bánh mì chay miễn phí, chị Hoa còn hỗ trợ kết nối các hoàn cảnh khó khăn với các nhà hảo tâm để họ có cơ hội được giúp đỡ.
Chuyện tình đũa lệch của vợ chồng chị khiến bao người ngưỡng mộ
Chị kể có lần, chị thay mặt cho một người bạn phát 1 tấn gạo cho bà con có hoàn cảnh khó khăn. Vì mong muốn phần quà được trao đến đúng với người cần, vợ chồng chị đã trực tiếp chở nhau đi khảo sát, phát phiếu nhận gạo cho từng người.
“Mình không có tiền thì mình có sức, miễn sao giúp được cho mọi người là chúng tôi vui rồi. Làm việc thiện nguyện, dù là một hành động nhỏ cũng có thể giúp thay đổi một cuộc đời”, người phụ nữ tâm tình.
Ít ai ngờ rằng, sự tử tế, lương thiện lại chính là bí quyết giúp tình yêu của đôi vợ chồng lệch tuổi này luôn nồng cháy.
Vợ chồng chị Hoa tin, khi cả hai cùng chí hướng và biết yêu thương người khác thì họ càng biết cách yêu thương, trân quý người bên cạnh mình. Những ổ bánh mì không chỉ trao đi yêu thương mà còn giúp họ thêm thấu hiểu nhau, tạo nên một tình yêu vượt lên mọi khoảng cách.
Không chỉ vợ chồng chị Hoa, mà còn rất nhiều người TP.HCM âm thầm lan tỏa sự tử tế bằng những cách riêng. Đôi khi, một hành động nhỏ cũng có thể làm nên điều kỳ diệu, giống như cách một ổ bánh mì miễn phí có thể mang lại niềm vui và hy vọng cho ai đó vào một buổi sáng bình thường. TP.HCM vẫn luôn vậy, ấm áp và nghĩa tình vô cùng. Thái Thanh
Sài Gòn nghĩa tình: Những y sĩ không lương cứu người ở phòng khám nhân đạo
Với người nghèo, bệnh tật không chỉ là nỗi đau thể xác mà còn là gánh nặng chi phí. Thấu hiểu nỗi nhọc nhằn đó, tháng 4.2023, phòng khám nhân đạo Hội Chữ thập đỏ Q.Gò Vấp (96 Huỳnh Khương An, P.5, Q.Gò Vấp) được thành lập.
Tại đây, mỗi thầy thuốc đều xem việc chữa bệnh như một hành trình chia sẻ yêu thương. Họ gắn bó với phòng khám nhân đạo không phải vì đồng lương, mà bởi lòng trắc ẩn với những phận đời cơ cực. Chính từ tấm lòng ấy mà nhiều người nghèo có cơ hội được thăm khám, điều trị.
Loạt bài mong muốn khắc họa những con người thuộc nhiều tầng lớp, tôn giáo khác nhau (trong đó có những tấm gương được Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM giới thiệu để bình chọn 50 cá nhân tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển TP.HCM giai đoạn 1975 – 2025) nhưng đều chung tấm lòng nhân ái, sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ những mảnh đời thiếu may mắn, cần sự cưu mang, chia sẻ.
Bằng những nghĩa tình, họ dìu nhau qua cuộc sống và cùng nhau góp phần dựng xây nên một Sài Gòn – TP.HCM luôn phát triển, bao dung, ấm áp và tràn đầy yêu thương cho tất cả những ai đến vùng đất này.
Chọn ở lại phòng khám nhân đạo vì người nghèo
Tại phòng khám, chúng tôi gặp bà Hồ Thị Ngọc Lan (53 tuổi), một y sĩ y học cổ truyền đang thăm khám cho bệnh nhân. Bà là một trong những y sĩ gắn bó với phòng khám ngay từ những ngày đầu thành lập.
Sinh ra trong một gia đình Phật tử, ngay từ nhỏ, bà đã được gia đình dạy dỗ về đạo hiếu, lòng từ bi và tinh thần hy sinh vì cộng đồng.
Phòng khám nhân đạo Hội Chữ thập đỏ Q.Gò Vấp bắt đầu hoạt động vào lúc 8 giờ sáng hằng ngày
Lớn lên, bà không chọn làm việc tại bệnh viện hay trung tâm y tế nào khác, mà quyết tâm theo đuổi con đường thiện nguyện bằng y học cổ truyền. “Tôi học nghề này để trở thành thầy thuốc của người dân nghèo”, bà bày tỏ.
Hiện phòng khám có 9 y sĩ và kỹ thuật viên. Tất cả đều có chứng chỉ hành nghề và mang trong mình một trái tim nhân hậu. Mỗi ngày, phòng khám bắt đầu đón bệnh nhân từ 8 giờ sáng và chỉ nghỉ khi bệnh nhân cuối cùng được khám xong.
“Có những bữa bà con tới khám trễ, tới lượt thì đúng giờ nghỉ trưa. Dù mệt nhưng chúng tôi không nỡ bỏ. Người ta đã ngồi chờ cả buổi rồi, bắt chờ thêm tới chiều thì tội lắm”, bà Lan kể.
Những ngày đầu, phòng khám chỉ là vài phòng trống trơn, trang thiết bị thiếu thốn, thuốc men khan hiếm, nhân sự lại không đủ. Vậy mà các y sĩ không nản chí. Họ góp tiền mua từng cây kim, từng cuộn băng gạc để có thể tiếp tục chữa trị cho bà con nghèo.
Y sĩ Lan tận tình chữa bệnh cho bệnh nhân
Khi được hỏi vì sao không chọn làm ở những cơ sở y tế có điều kiện tốt hơn, bà Lan chỉ mỉm cười tâm sự: “Tất cả y sĩ làm việc tại phòng khám đều mang trong mình một cái tâm thiện nguyện. Nó giống như từ trường của một người, khi phát ra năng lượng tích cực thì nó sẽ lan tỏa khắp nơi”.
Nhớ về một trường hợp bệnh nhân tên Hùng (34 tuổi) bị liệt toàn thân sau tai biến. Sau hơn 3 tháng châm cứu, tập vật lý trị liệu tại phòng khám thì anh đã hoàn toàn bình phục.
“Khi bệnh nhân dần ổn định sức khỏe và trở lại cuộc sống bình thường, các y sĩ chúng tôi vô cùng vui mừng. Đó cũng là động lực để chúng tôi tiếp tục cố gắng hơn”, bà Lan tâm sự.
Trong lúc câu chuyện đang tiếp diễn, bỗng nhiên, một cụ già tóc bạc, lưng đã còng chầm chậm bước vào phòng khám. Cụ lại gần bà Lan, giọng đầy lo lắng hỏi: “Bác ơi, tôi khám có tốn tiền không?”
Nghe vậy, bà Lan mỉm cười hiền hậu. Bà ôm lấy đôi tay gầy guộc của cụ và nói: “Chúng con chữa trị miễn phí, bà yên tâm nghen”. Sau đó, bà nhẹ nhàng đặt tay lên vai cụ, nở một nụ cười hiền hậu, rồi ân cần dặn dò cụ sáng mai lại tiếp tục ghé.
Dường như không tin nổi lời bà Lan nói, cụ đứng sững, giọng nghẹn ngào nói lời cảm ơn. Khoảnh khắc ấy, không chỉ bà cụ mà tất cả những người có mặt trong phòng khám đều cảm nhận được sự ấm áp lan tỏa từ trái tim của người thầy thuốc tận tâm.
Cũng như bà Lan, y sĩ Đào Đức Hải (66 tuổi) là một trong những lương y tận tâm, tận tụy với bệnh nhân nghèo. Từ khi biết đến mô hình phòng khám nhân đạo này, ông đã tình nguyện tham gia với mong muốn mang lại hy vọng cho những người không có khả năng chi trả các dịch vụ y tế thông thường.
Ngoài chữa bệnh, y sĩ Hải luôn quan tâm, động viên bệnh nhân
Hơn hai năm qua, ông được biết đến là một y sĩ có tấm lòng nhân hậu, luôn nhẹ nhàng và yêu thương bệnh nhân. Ngày ngày, ông dành toàn bộ thời gian ở phòng khám để châm cứu, hướng dẫn bệnh nhân thực hiện các bài tập vật lý trị liệu, đặc biệt là các bệnh nhân sau tai biến.
Ông không chỉ là một thầy thuốc mà còn là một người bạn luôn động viên, sẻ chia với bệnh nhân. “Tôi làm việc này không phải vì tiền bạc, mà vì tôi tìm được niềm vui khi thấy bệnh nhân dần khỏe lại”, ông Hải nói.
‘Nếu không có phòng khám này, chắc tôi đã không qua khỏi’
Tại phòng khám, chúng tôi gặp ông Nguyễn Văn Thành (53 tuổi, ở P.5, Q.Gò Vấp), một bệnh nhân gắn bó lâu dài với phòng khám.
Ông Thành xúc động nói, hồi tháng 7.2021, ông bị đột quỵ khiến cuộc sống đảo lộn. Từ một người đàn ông khỏe mạnh, làm nghề lái xe để lo cho gia đình, ông bỗng nằm liệt giường, mọi sinh hoạt đều phải thực hiện tại chỗ.
Ông Thành nói y sĩ Hải là ân nhân của mình
Khi phòng khám được thành lập, mỗi ngày vợ ông đều đẩy xe lăn đưa ông đến điều trị. Tại đây, ông được chữa trị hoàn toàn miễn phí, các y sĩ lại rất hết lòng, đặc biệt là y sĩ Hải luôn kề cạnh chăm sóc, động viên.
Sau một thời gian dài châm cứu, tập luyện vật lý trị liệu, giờ đây ông Thành đã có thể đi lại. Như một phép màu, ông chưa bao giờ nghĩ bản thân có thể đứng dậy được.
“Nếu không có phòng khám này, chắc tôi đã không qua khỏi. Lúc mới bệnh, con út của tôi mới bốn tuổi, nghe bác sĩ ở bệnh viện nói có khả năng nằm liệt cả đời, tôi sụp đổ vì không biết lấy tiền đâu mà nuôi con”, ông Thành bùi ngùi nhớ lại.
Nằm cạnh giường của ông Thành là con trai của bà Đào Thị Kim Dung (70 tuổi, ở P.5, Q.Gò Vấp). Con trai bà Dung làm bảo vệ, là trụ cột duy nhất trong gia đình nhỏ chỉ có hai mẹ con nương tựa. Biến cố xảy ra khi năm 2016, anh bị tai biến và mất khả năng lao động.
Con trai bà Kim Dung được các y sĩ chữa trị tận tình
Ròng rã 8 năm trời, bà Dung đưa con đi chạy chữa khắp nơi, nhưng bệnh tình không cải thiện mà kinh tế gia đình thì ngày càng kiệt quệ. Bà Dung thì già yếu, không thể chở con bằng xe máy, nên mỗi lần đi chữa bệnh, bà lại phải thuê xe taxi.
“May mà giờ có phòng khám gần nhà, tôi chở con mà không sợ bị ngã. Các y sĩ ở đây chẳng nề hà gì, đau ít đau nhiều gì cũng ân cần điều trị cho,” bà Dung xúc động nói.
Tuổi già, không còn sức lao động, lại không thể trông cậy vào con cái, phòng khám trở thành chỗ dựa của bà Lê Thị Hòa (69 tuổi, ở P.5, Q.Gò Vấp) mỗi khi “trái gió trở trời”.
Bà Hòa mắc nhiều bệnh: giãn tĩnh mạch, đau xương khớp, tiểu đường, thường xuyên hoa mắt chóng mặt… nhưng không dám vào phòng khám vì sợ tốn nhiều tiền. Từ ngày biết được chữa bệnh miễn phí, bà vui lắm, hôm nào cũng đi bộ từ sớm đến phòng khám.
Bệnh nhân đến phòng khám không phải lo về chi phí
“Tôi chỉ mong phòng khám duy trì được mãi. Các y sĩ ai cũng thương bệnh nhân, hỏi han tận tình, lại không lấy tiền khám. Nếu ai có dư chút đỉnh thì bỏ vào thùng thiện nguyện, còn không thì cũng không sao,” bà nói.
Không những vậy, bà còn khen cán bộ ở Hội Chữ thập đỏ Q.Gò Vấp ai cũng thương dân. Cứ cách vài hôm, bà lại được cho gạo, mắm, muối…
Giữa nhịp sống hối hả của thành phố, phòng khám nhân đạo Hội Chữ thập đỏ Q.Gò Vấp vẫn âm thầm mở cửa hằng ngày để đón những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn.
Tại đây, các y sĩ không chỉ chữa bệnh mà còn xem bệnh nhân như người nhà để lắng nghe, động viên. Những việc làm của các y sĩ không chỉ góp phần chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, mà còn tiếp nối truyền thống nghĩa tình, làm nên bản sắc nhân văn của TP.HCM.
Nỗ lực duy trì phòng khám nhân đạo
Bà Lê Thị Vịnh, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Q.Gò Vấp cho biết, phòng khám nhân đạo Hội Chữ thập đỏ Q.Gò Vấp được thành lập vào ngày 28.4.2023 với mục tiêu thăm khám, chữa bệnh và trợ giúp người yếu thế trong xã hội.
Sau dịch Covid-19, sức khỏe của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Phòng khám ra đời với mục đích ban đầu là hồi phục sức khỏe cho người dân.
Khi mới thành lập, phòng khám gặp vô vàn khó khăn. Cơ sở vật chất ban đầu rất thô sơ, chỉ có một vài phòng đơn giản và chỉ có một, hai lương y làm việc không lương. Thiết bị y tế và nguồn thuốc nam thiếu thốn khiến công tác chăm sóc sức khỏe gặp rất nhiều trở ngại.
Phòng khám nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan, tổ chức, nhà hảo tâm và đội ngũ lương y thiện nguyện. Đến nay, phòng khám đã giúp nâng cao sức khỏe cho người dân, tạo điều kiện để họ tham gia lao động sản xuất và ổn định cuộc sống.
Tính đến năm 2024, phòng khám tiếp nhận và khám chữa bệnh cho hơn 1.693 lượt bệnh nhân với tổng giá trị hỗ trợ gần 353 triệu đồng.
Phòng khám sử dụng phương pháp y học cổ truyền như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt và bốc thuốc nam. Các hoạt động phòng khám hoàn toàn miễn phí.
Cơ sở vật chất hiện tại bao gồm 4 phòng khám chuyên dụng và 1 phòng vật lý trị liệu, được trang bị thiết bị y tế do Quỹ Tâm Nguyện Việt và các nhà hảo tâm hỗ trợ.
Hiện nay phòng khám có 9 giường châm cứu; 2 giường kéo cột sống, cổ; 4 ghế kéo tay; 2 xe đạp và nhiều thiết bị khác phục vụ cho vật lý trị liệu, đặc biệt là trong việc điều trị tai biến. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu một số vật tư y tế chuyên dụng.
Hoạt động của phòng khám được hỗ trợ từ UBND Q.Gò Vấp giúp cải thiện cơ sở vật chất và thu hút đội ngũ y sĩ, kỹ thuật viên có tay nghề cao. Hoài Nhiên
‘Một, hai hộp cơm miễn phí không làm thay đổi cuộc đời ai, nhưng nó có thể giúp một bệnh nhân ung thư nghèo bớt đi một nỗi lo’.
6 giờ sáng chủ nhật, trong khuôn viên ngôi nhà nhỏ ở góc đường 4A Phước Thiện (TP.Thủ Đức, Sài Gòn), ánh nắng buổi sớm xuyên qua khe cửa, rọi xuống những đôi bàn tay thoăn thoắt làm bếp để trao gửi phần cơm ngon đến bệnh nhân ung thư.
Ở góc bếp, chị Nguyễn Trinh, một người phụ nữ ngoài 40, cẩn thận vo gạo để nấu cơm. Chị luôn là người phụ trách nồi cơm, bởi theo chị “cơm ngon, dẻo thì bệnh nhân mới dễ ăn”.
Ngay bên cạnh, chị Tôn Nữ Nam Phương, anh Phạm Tú cùng 2 bạn trẻ đang nhanh tay xào thịt. Tiếng dầu sôi lách tách, hương thơm của thịt kho tiêu lan tỏa khắp căn bếp, xen lẫn tiếng nói cười vui vẻ. Chị Phương vừa đảo thịt, vừa nhắc nhở “nhớ nêm nhạt một chút nhé, nhiều bệnh nhân phải kiêng muối đó”.
Không khí rộn ràng nhưng không vội vã, hối hả bởi ở đây mỗi người đều đang “sống chậm hơn” để trao gửi tâm tình vào từng suất cơm đầy yêu thương.
Đây là một trong hàng trăm bếp thiện nguyện tại Sài Gòn được lập nên để tiếp sức bệnh nhân.
TP.HCM nghĩa tình là loạt bài của Báo Thanh Niên thực hiện nhân dịp 50 năm đất nước thống nhất (30.4.1975 – 30.4.2025).
Loạt bài mong muốn khắc họa những con người thuộc nhiều tầng lớp, tôn giáo khác nhau (trong đó có những tấm gương được Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM giới thiệu để bình chọn 50 cá nhân tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển TP.HCM giai đoạn 1975 – 2025) nhưng đều chung tấm lòng nhân ái, sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ những mảnh đời thiếu may mắn, cần sự cưu mang, chia sẻ.
Bằng những nghĩa tình, họ dìu nhau qua cuộc sống và cùng nhau góp phần dựng xây nên một Sài Gòn – luôn phát triển, bao dung, ấm áp và tràn đầy yêu thương cho tất cả những ai đến vùng đất này.
Góc sân, nơi các thành viên chuẩn bị rau củ quả
Góc sân, cô Cao Mộng Hằng (63 tuổi) cùng chị Tuyết và con gái đang cần mẫn rửa từng trái dưa, nhặt từng cọng rau. Nước chảy lách tách, đôi tay của cô thoăn thoắt thể hiện đặc trưng người làm bếp lâu năm. Cô cười hiền hậu, nói với cô gái trẻ bên cạnh: “Cháu nhớ nhặt kỹ nha, mình làm cho người bệnh ăn thì phải sạch sẽ, tươm tất.”
Ba chồng cô Hằng (90 tuổi) ngồi cười nói: “Hôm nay đông vui quá hen, cố gắng nha các con, ông không giúp được gì, cho ông góp “chút thịt” cho bữa ăn bệnh nhân”.
Ngày chủ nhật thường là khoảng thời gian dành cho các thành viên gia đình sum họp sau một tuần làm việc vất vả nhưng với gia đình cô Hằng thì không gian đó nhường lại cho “Bếp yêu thương”. Bởi được chung sức làm thiện nguyện là niềm vui của cô và gia đình.
Khi kim đồng hồ nhích qua 10 giờ, nắng trở mình rực rỡ cũng là lúc các công đoạn nấu nướng gần như hoàn tất. Ai nấy đều tập trung, cẩn thận múc từng muỗng cơm, gắp từng miếng rau, xếp thức ăn ngay ngắn.
Những phần cơm nóng hổi được ra lò
Cùng nhau góp nhặt yêu thương giúp bệnh nhân ung thư
Không có một cái tên hào nhoáng, không có sự rình rang quảng bá hay kêu gọi, nhóm thiện nguyện với tên gọi thân thương “Bếp yêu thương” được thành lập trên Zalo chỉ với một mục đích duy nhất, mang đến bữa cơm nghĩa tình cho những người cần nó nhất.
Các thành viên trong nhóm đến từ nhiều ngành nghề và lứa tuổi khác nhau, có người đã về hưu, cũng có bạn trẻ đang đi học, có người là chủ doanh nghiệp, có người là nhân viên văn phòng, công nhân, chạy xe ôm công nghệ…
Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng họ có chung một trái tim thiện nguyện. Người góp tiền, người góp chai nước mắm, người góp vài ký rau, người góp bao gạo, người bỏ công… để thắp lửa cho căn bếp.
“Tôi từng tự hỏi có bao nhiêu tiền thì mới làm từ thiện được, chờ giàu thì đến khi nào, thôi thì mỗi người góp một ít, có gì làm nấy. Tiền bạc mình có thể chắt góp được nhưng ở một nơi đất chật người đông như TP.HCM, việc tìm mặt bằng để nấu nướng là vô cùng khó khăn. Cơ duyên kết nối được với cô Hằng chủ nhà, cùng các anh chị em vô cùng dễ thương trong ban công tác mặt trận khu phố, hội phụ nữ, cư dân… Người góp tiền, người góp công, tất cả cùng nhau phối hợp nhịp nhàng”, chị Trần Thị Hoa Phương, Trưởng nhóm “Bếp yêu thương” bộc bạch.
Bạn Huy (sinh viên năm 2 – Đại học Thể dục thể thao), Quang Phú (sinh viên Đại học Y Dược Sài Gòn) đều đặn dành thời gian đến từng phòng bệnh phát phiếu tặng suất ăn cho các bệnh nhân ung thư.
“Tôi từng có người thân bị ung thư, nên tôi hiểu họ vất vả và chông chênh thế nào. Mỗi bữa cơm gửi đi, tôi chỉ mong các bệnh nhân có thêm chút sức lực, thêm động lực tinh thần để chiến đấu với bệnh tật”, Huy tâm sự.
Thành viên “Bếp yêu thương” phát tặng phiếu ăn cho bệnh nhân ung thư
Ngoài cổng, anh Thành, người phụ trách vận chuyển, đang kiểm tra xe. Những thùng cơm nóng hổi được xếp ngay ngắn phía sau, sẵn sàng lên đường đến bệnh viện. Anh kéo găng tay, quay lại nhắc mọi người: “Nhanh nào mọi người, để cơm đến nơi vẫn còn nóng!”.
Hơn cả một bữa cơm, đó là sự chia sẻ, gửi gắm niềm tin
Mỗi suất cơm trao đi không chỉ là một phần ăn ngon và no bụng, mà còn là một lời động viên, một sự chia sẻ đầy yêu thương. Những bệnh nhân ung thư, đa phần đều là người xa quê, kinh tế eo hẹp. Có những người điều trị dài ngày, tiền thuốc thang đã quá đắt đỏ, đến bữa ăn cũng trở thành nỗi lo cho cả bệnh nhân và người nhà.
Bác Thắng (58 tuổi), một bệnh nhân từ miền Trung vào điều trị, nghẹn ngào khi nhận hộp cơm còn ấm nóng trên tay: “Mỗi ngày chi phí điều trị đã quá nhiều, có bữa cơm miễn phí thế này, tôi mừng lắm. Nhưng quý hơn là tình cảm của những người nấu ra nó, làm tôi thấy mình không đơn độc”.
Không chỉ mang đến những phần ăn, các thành viên trong nhóm còn dành thời gian trò chuyện, thăm hỏi các bệnh nhân. Có những người cả tháng không có ai đến thăm, những cuộc trò chuyện, hỏi thăm dù ngắn ngủi trong phút chốc cũng đủ để sưởi ấm lòng họ.
Tác giả cùng các thành viên thân thương của nhóm “Bếp yêu thương” chụp hình kỷ niệm
Một thành viên lớn tuổi nhẹ nhàng đặt tay lên vai một bệnh nhân trẻ, ân cần hỏi: “Con ăn thấy ngon không, có cần thêm gì không?”. Cô gái trẻ gật đầu cảm ơn, đôi mắt long lanh, như muốn nói rằng sự quan tâm này quý giá hơn bất cứ điều gì.
Không quản mưa nắng, “Bếp yêu thương” vẫn đều đặn đỏ lửa. Dù có những hôm trời mưa tầm tã, áo quần ướt sũng, các anh chị vẫn lặng lẽ xếp từng hộp cơm lên xe, động viên nhau cố gắng.
Các suất ăn được trao tay đến các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân
“Một, hai hộp cơm miễn phí không làm thay đổi cuộc đời ai, nhưng nó có thể giúp một bệnh nhân ung thư nghèo bớt đi một nỗi lo. Và hơn hết, nó mang theo niềm tin rằng, giữa những khó khăn, vẫn luôn có những bàn tay sẵn sàng chìa ra để san sẻ giữa thành phố náo nhiệt. Mong rằng số lượng bếp trên địa bàn Sài Gòn ngày càng nhiều hơn để giúp đỡ bệnh nhân khó khăn”, bác Nguyễn Quang Chung – Trưởng ban Công tác Mặt trận khu phố 25, phường Long Thạnh Mỹ, thành viên “Bếp yêu thương” bộc bạch. Lê Cầm
Sài Gòn nghĩa tình: Biết tiền khó kiếm, vẫn vá xe miễn phí cho shipper
Từng làm nghề giao hàng và thấy ‘đồng tiền kiếm khó’ nên khi mở tiệm sửa xe máy, anh Trần Thanh Sang (39 tuổi, ở Q.8, Sài Gòn) nhận vá xe miễn phí cho học sinh và shipper.
Đường Phạm Thế Hiển tấp nập người qua lại mỗi ngày, các tiệm sửa xe máy nằm ngay mặt tiền đường cũng không đếm xuể. 1 năm trước, khi quyết định mở tiệm sửa xe, anh Sang cũng in luôn tấm bảng với nội dung: “Vá xe miễn phí cho học sinh và shipper”, treo ngay trước cửa.
TP.HCM nghĩa tình là loạt bài của Báo Thanh Niên thực hiện nhân dịp 50 năm đất nước thống nhất (30.4.1975 – 30.4.2025).
Loạt bài mong muốn khắc họa những con người thuộc nhiều tầng lớp, tôn giáo khác nhau (trong đó có những tấm gương được Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM giới thiệu để bình chọn 50 cá nhân tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển TP.HCM giai đoạn 1975 – 2025) nhưng đều chung tấm lòng nhân ái, sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ những mảnh đời thiếu may mắn, cần sự cưu mang, chia sẻ.
Bằng những nghĩa tình, họ dìu nhau qua cuộc sống và cùng nhau góp phần dựng xây nên một Sài Gòn – TP.HCM luôn phát triển, bao dung, ấm áp và tràn đầy yêu thương cho tất cả những ai đến vùng đất này.
Biết ‘tiền khó kiếm’, anh thợ sửa xe quyết định làm điều đặc biệt cho shipper
“Tôi có 19 năm kinh nghiệm làm nghề sửa xe máy. Giai đoạn dịch Covid-19, tôi chuyển sang làm giao hàng một thời gian kiếm thêm thu nhập. Tôi thấy nghề này cánh tài xế rất cực, thu nhập không cao, đồng tiền kiếm ra rất khó”, anh Sang chia sẻ nỗi trăn trở. 1 năm trước, khi quyết định mở tiệm sửa xe tại nhà, anh mong muốn giúp những đồng nghiệp một thời đỡ phần nào chi phí.
Anh Sang trước cửa tiệm hôm 2.4
Treo bảng vá xe miễn phí nhưng khi cần sửa thêm những thứ lặt vặt cho cánh shipper như tăng sên, chỉnh phanh, vặn lại ốc vít lỏng…, anh Sang cũng không lấy tiền. Anh cho biết, tiền công vá xe tay ga trên thị trường hiện nay khoảng 40.000 đồng, xe số thì 20.000 đồng, việc lặt vặt khác là 10.000 đồng.
Anh Sang không nhớ rõ số lượng những người mình đã giúp. Hôm nào nhiều thì giúp được 2 – 3 trường hợp, hôm thì không có khách nào. Anh thật thà: “Tôi vá xe giúp họ xong thì quên ngay”.
Anh Sang kể, khi giúp đỡ mọi người, anh không mong được trả ơn. Tuy nhiên, vì khá bất ngờ về lòng tốt của anh thợ sửa xe, nhiều người vẫn cố dúi tiền vào tay anh. Khi anh Sang nhất quyết không nhận, họ chỉ biết gửi lời cám ơn rồi rời đi.
Tấm bảng nhỏ treo trước cửa tiệm từ ngày khai trương, đến nay đã tròn 1 năm
“Nghề làm shipper rong ruổi khắp các nẻo đường trong thành phố, không phải hôm nào mọi người cũng tiện đường đi ngang tiệm của tôi. Tuy nhiên, có nhiều anh shipper khi cần sửa xe, thay nhớt…, họ vẫn quay lại chỗ tôi để sửa, dù cách nhà cả chục km”, anh Sang kể về mối ân tình mà cánh shipper dành cho anh.
Đôi khi đang bận sửa xe cho khách, có shipper ghé vào nhờ vá xe, anh xin phép khách đợi thêm vài phút, ưu tiên làm cho shipper trước rồi mới quay lại công việc chính.
Anh Nguyễn Ngọc Tài (36 tuổi, ở Q.6), tài xế xe ôm công nghệ nhớ lại cơ duyên biết đến tiệm của anh Sang trong một lần chở khách ngang qua đường Phạm Thế Hiển mấy tháng trước. Khi đó, anh thấy tấm bảng vá xe miễn phí nên lưu lại địa chỉ. Sau một thời gian, anh bị bể bánh xe gần tiệm nên sực nhớ ra và dắt xe đến vá.
Anh Sang cũng thường giữ lại những vỏ bánh xe còn dùng được, khi có khách thay mới để thay cho những người bán vé số, nhặt ve chai miễn phí
“Tôi bất ngờ khi anh Sang nói không lấy tiền. Di chuyển nhiều nhưng ít thấy có nơi nào bơm, vá xe miễn phí. Đỡ tốn khoảng 30.000 – 40.000 đồng vá xe, tôi để dành mua nước hay dĩa cơm ăn cũng đỡ. Thấy chỗ anh Sang tốt nên thỉnh thoảng tiện đường tôi ghé vào nghỉ chân, xin nước để uống”, anh Tài cho biết.
Không có của thì giúp bằng công
Anh Sang sinh ra và lớn lên ở TP.HCM. Trong suốt quá trình trưởng thành, anh cũng từng nhận được nhiều sự giúp đỡ của “người dưng”, như lúc hết xăng hay hư xe giữa đường. Những lúc như thế, anh Sang thấy ấm lòng, ghi nhớ mãi.
Chị Huỳnh Kim Ái, vợ anh Sang chia sẻ: “Vì chúng tôi không có của, không giàu có nên sẽ giúp mọi người bằng cái công của mình”.
Người vợ hoàn toàn đồng tình với việc giúp đỡ mọi người của chồng vì biết rõ sự vất vả của nghề shipper qua thời gian chồng làm nghề này. Chị Ái nhớ rõ những lúc thấy chồng ráng nhịn qua bữa, đợi về ăn cơm ở nhà để tiết kiệm, hôm nào ế khách phải tranh thủ chạy đến nửa đêm.
Tiệm của anh Sang mở cửa từ sáng đến khoảng 19 giờ nhưng vẫn sẵn sàng hỗ trợ mọi người khi còn thức
Ở tiệm của anh Sang còn có một điều đặc biệt, đó là miễn phí bơm bánh xe cho tất cả mọi người. Trên thị trường hiện nay, trung bình bơm một bánh xe tốn 3.000 đồng, 2 bánh xe thì 5.000 đồng.
Mỗi ngày, anh Sang có thể kiếm được cả trăm ngàn đồng từ việc bơm hơi, thế nhưng anh từ chối nhận tiền. Nhiều người hỏi anh nếu số tiền lẻ đó để dành bỏ ống heo cuối tháng cũng kiếm được vài triệu nhưng anh chỉ cười, nói: “Giúp được mọi người như thế, tôi thấy vui hơn”.
Bà Kiều Trinh (56 tuổi, ở Q.Bình Tân) hôm 2.4 có việc đi ngang qua đường Phạm Thế Hiển nên ghé vào tiệm anh Sang bơm 2 bánh xe. Khi hỏi anh Sang bao nhiêu tiền để trả, bà Trinh bất ngờ khi anh nói không lấy tiền.
“Tôi nghe ở Sài Gòn này cũng có nhiều người làm việc tốt, giúp đỡ người khác không lấy tiền nhưng giờ mới gặp. Tuy chỉ vài ngàn đồng thôi nhưng được miễn phí thế này tôi cũng thấy vui lắm”, bà Trinh nói cảm ơn anh Sang rồi vặn tay ga đi tiếp. Phan Diệp–
Gia tài lớn nhất của kỷ lục gia thiện nguyện Việt Nam là gì?
Tan sở, y tá Châu Thành Toàn – kỷ lục gia thiện nguyện 42 tuổi (ở Q.Gò Vấp) cởi áo blouse, thay vào chiếc áo tình nguyện xếp sẵn trong ba lô rời chỗ làm đi tặng quà cho bệnh nhân.
Y tá Châu Thành Toàn cất lên bài hát do chính mình sáng tác khi bước vào phòng bệnh ở Trung tâm Chấn thương chỉnh hình và phục hồi chức năng ở Q.3, nơi có hơn chục bệnh nhân đang chờ lắp chân giả. Chốc chốc, anh ngừng lại bất chợt, đố mọi người những từ tiếp theo là gì. Ai đoán trúng sẽ được tặng một bao lì xì. Buổi tặng quà của kỷ lục gia thiện nguyện tại bệnh viện thật sôi động.
“Cậu này đến cho quà mà hài hước quá, tôi chưa thấy ai vậy bao giờ”, ông Nguyễn Thanh Minh, 70 tuổi, quê Cần Thơ vừa mất một chân sau vụ tai nạn cười nắc nẻ nói.
Gia tài của kỷ lục gia
50 phần quà anh Toàn mang đến hôm nay có hộp bánh, lốc sữa, chục gói dầu gội và 150.000 đồng được nhà hảo tâm tài trợ. Liên tục trong 27 năm qua, anh trở thành cầu nối, chuyển những món quà của nhiều tấm lòng đến với người người khó khăn. Tháng 3.2020, anh được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam trao bằng xác lập Kỷ lục Thiện nguyện Việt Nam với 22 năm làm tình nguyện liên tục.
Tặng quà xong, anh Toàn nán lại khá lâu, hỏi thăm cậu bạn trẻ tuổi về cánh tay cụt còn băng bó. Anh động viên người phụ nữ bị bỏng nặng toàn thân: “Rồi chị sẽ lại đẹp lên thôi”. “Tôi không chấp nhận cảnh bắt người nghèo đứng phơi nắng, chìa hai bàn tay ra, nhận vài chục ngàn, xong phải cúi đầu cám ơn, chụp ảnh liên tục”, anh nói.
Châu Thành Toàn trước gia tài của mình, là những giấy khen, huy chương của vận động viên khuyết tật tặng anh trong 27 năm qua
Anh Toàn khởi đầu sự nghiệp tình nguyện của mình từ năm 15 tuổi. Khi anh tham gia các hoạt động tình nguyện như điều phối giao thông, gỡ giấy quảng cáo trên những trụ điện do phường tổ chức vào mỗi dịp hè.
Suốt những năm tháng trên ghế giảng đường, anh thay thế những cuộc vui cùng bạn bè bằng việc đến giúp đỡ bệnh nhân ung thư. Sau này, anh kết nối nhiều nhà hảo tâm tài trợ kinh phí, đứng ra tổ chức các chương trình thiện nguyện giúp đỡ người nghèo như xây nhà tình thương, tặng xe đạp, sách vở cho học sinh, làm chân giả cho người khuyết tật, nấu những bữa ăn 0 đồng…
Y tá Châu Thành Toàn nhận được kỷ niệm chương của Ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam (Miss Cosmo Vietnam) vì có nhiều đóng góp trong việc phối hợp tổ chức những chương trình thiện nguyện
Châu Thành Toàn khẳng định bản thân anh không hề giàu có, vì nhiều người nghĩ anh giàu nên mới có thể làm thiện nguyện. Anh nói rằng anh chỉ làm công ăn lương. Sau 8 tiếng làm việc ở trung tâm y tế, anh dành thời gian còn lại cho tình nguyện. 2 ngày cuối tuần và 14 ngày nghỉ phép trong năm, anh lấp trống bằng những chuyến đi khảo sát xây nhà, mua quà cho người nghèo.
“Nếu nói về tiền của, thì mỗi ngày, tôi cũng dành ra vài ngàn lẻ tiền đi chợ còn dư vào ống heo. Vậy là cuối năm tôi đã có thể góp một phần quà nhỏ cho người yếu thế. Tại sao phải đợi giàu mới làm thiện nguyện?”, Toàn tự hỏi.
Theo anh, không cần đợi đến giàu mới làm từ thiện. Không đợi đến khi bản thân gặp biến cố rồi mới thấy ý nghĩa của việc giúp đỡ người khác. Chính những người bình thường trong xã hội chịu bỏ chút công sức, chút đồng lẻ để làm việc thiện mới cần được tôn vinh.
Vậy gia tài của kỷ lục gia có gì? Đó là gần 100 bằng khen của các cơ quan, đơn vị và những kỷ niệm chương, tấm huy chương của các vận động viên khuyết tật tặng anh vì anh đã có 22 năm đóng góp cho thể thao người khuyết tật Việt Nam. Tài sản của Toàn không phải là tiền hay của cải mà là những món đồ ghi nhận sự đóng góp của anh cho cộng đồng.
Làm thiện nguyện nhưng phải biết ơn
Với những việc làm của mình, Toàn nhận được nhiều danh hiệu như Tình nguyện viên cấp quốc gia 2017, Hạt giống tâm hồn 2013, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp nhân đạo… Anh cũng ra mắt 2 cuốn sách: Cho đời một chút bình yên và Ráng cho đời tử tế, ghi lại chặng đường cống hiến vì cộng đồng của mình.
Chứng kiến đứa con trai độc đinh của mình mãi lo việc xã hội, ba của anh, ông Châu Minh Tâm, 76 tuổi thường trêu anh: “Không biết sau này ba ốm đau, con có thời gian để chăm sóc ba không?”.
Gia tài của Toàn được treo đầy phòng khách gia đình như một niềm tự hào lớn lao
Ảnh: Phan Diệp
Nhóm thiện nguyện SV 07 của Toàn nấu ăn ở chùa dịp đại lễ Vesak 2025
Trong cuốn sách Cho đời một chút bình yên của Toàn, NSND Kim Cương chia sẻ: “Toàn đồng hành cùng tôi hơn 10 năm, cháu Toàn vui và dễ thương, làm tình nguyện rất tốt. Đi thiện nguyện khắp vùng sâu vùng xa không ngại khó khăn gian khổ”.
3 giờ sáng, ngày thứ bảy, sau hơn 4 tiếng ngủ chập chờn trên xe khách, Toàn về đến Vĩnh Châu, Sóc Trăng. Hôm nay là ngày đi khảo sát hoàn cảnh gia đình hộ nghèo để kết nối nhà hảo tâm xây căn nhà tình thương thứ 112. Ngoài 40 tuổi, tóc anh đã lấm tấm bạc, lưng cũng thường đau nhức nhưng chưa hề nghĩ đến chuyện vợ con.
Trong tất cả những hoạt động thiện nguyện, kỷ lục gia Châu Thành Toàn mong muốn đóng góp nhiều nhất cho thể thao người khuyết tật. Trong hình, anh và nhóm thiện nguyện SV 07 của mình hỗ trợ vận động viên khuyết tật tại giải pickleball ở TP.HCM năm 2024
Xong việc, lại vội vã lên xe trở lại Sài Gòn để chuẩn bị một tuần làm việc mới. Sáng thứ hai, với chiếc áo sơ mi từ thiện đã cũ nhàu treo trên giá chẳng kịp ủi phẳng, Toàn đến cơ quan.
“Có khi, tôi chỉ cần một lời cám ơn chân thành là đã đủ cho những vất vả”, Toàn nói và khẳng định, điều quan trọng nhất để giúp anh có thể gắn bó hơn nửa đời mình với thiện nguyện ngoài sự cố gắng của bản thân thì còn là sự tin tưởng của các nhà hảo tâm. Và để nhận được sự tin tưởng đó, Toàn phải làm thiện nguyện một cách chuyên nghiệp, minh bạch vì nhà hảo tâm luôn muốn biết rõ tiền của họ được sử dụng như thế nào.
“Trong các chương trình, tôi luôn kết nối với chính quyền địa phương để xin những tờ giấy khen gửi tặng lại nhà hảo tâm để ghi nhận lòng tốt của họ. Nhiều người nói rằng cho đi không cần nhận lại, nhưng 1 tờ giấy khen là cách tôi thực hành lòng biết ơn. Chính nhờ sự biết ơn, tôi mới được các nhà hảo tâm tin tưởng trong nhiều năm qua”, Toàn nói. Phan Diệp
Bữa cơm nhà thờ đậm vị tử tế ở Sài Gòn, khiến người nhận khóc vì được thương
Giữa lòng phố thị Sài Gònvội vã, có một nhóm người lặng lẽ thắp yêu thương mỗi sáng thứ năm bằng những suất cơm đậm đà sự tử tế.
Khoảng độ 6 giờ sáng, trong khuôn viên phía sau nhà thờ giáo xứ Cầu Kho (Q.1,Sài Gòn) bắt đầu rộn ràng tiếng nói cười. Ngày thứ năm như thường lệ, ban Caritas (làm từ thiện với tinh thần bác ái) của nhà thờ lại tụ họp nhóm lửa, tất bật chuẩn bị 100 phần cơm đậm vị tử tế cho những người có hoàn cảnh khó khăn.
Bữa cơm tử tế giữa lòng thành phố
Người nhóm lửa đầu tiên cho căn bếp nghĩa tình này là cô Vũ Thị Bông (70 tuổi, Trưởng ban Caritas nhà thờ giáo xứ Cầu Kho).
Cô Bông có mặt từ sáng sớm để chuẩn bị những phần cơm tươm tất cho người có hoàn cảnh khó khăn
ẢNH: HOÀI NHIÊN
Cô Bông kể, cách đây đúng một năm, trong một chuyến đi làm thiện nguyện, cô bắt gặp cảnh một nhóm người phát cơm cho người có hoàn cảnh khó khăn. Cảnh tượng ấy như níu lại trong lòng, khiến cô cứ trăn trở mãi.
“Thấy người ta làm được, mình cũng muốn làm một cái gì đó cho bà con khó khăn ở gần mình”, cô nói.
Những ngày đầu, nhóm chỉ đủ chi phí để nấu khoảng 50 phần cơm mỗi tuần. Kinh phí của bếp ăn chủ yếu đến từ tiền lợi nhuận của quầy hàng phục vụ bác ái đặt trước nhà thờ.
Quầy hàng phục vụ bác ái đặt trước nhà thờ có đầy đủ mặt hàng
Các mặt hàng được bán tại đây đều do tự tay các sơ làm nên, có đủ loại như cà phê, bột nghệ, bột ngũ cốc, bột sắn dây, mật ong, chà bông, sữa bò tươi…
Dần dà, bếp cơm được nhiều người biết đến. Người đến góp công, người góp gạo, người cho mắm, cho muối… Thế là, cái bếp cơm bé xíu ấy dần ấm lên bằng tình thương của rất nhiều người.
Giờ đây, sáng thứ năm nào cũng như một buổi “họp mặt” thân tình của 13 thành viên ban Caritas nhà thờ giáo xứ Cầu Kho, ai cũng đã ngoài 50 tuổi, có người hơn 70 tuổi.
Các thành viên của ban Caritas nhà thờ giáo xứ Cầu Kho tỉ mỉ chuẩn bị từng phần cơm
ẢNH: HOÀI NHIÊN
Người thì đi chợ từ chiều hôm trước, người thức dậy sớm nấu nướng, người cẩn thận gói từng hộp cơm, người lại chu đáo phân phát đến tay những người có hoàn cảnh khó khăn.
Cô Trần Thị Kim Hồng (69 tuổi, ở Q.1) là bếp chính kỳ cựu của căn bếp nhỏ này, lúc nào cũng luôn tay luôn chân không nghỉ.
“Ở tuổi này, làm được những điều nhỏ bé nhưng ý nghĩa thế này, tôi thấy rất vui. Càng làm công việc bác ái, tôi thấy mình ngày càng trẻ ra đấy chứ”, cô Hồng cười giòn giã.
Cô Hồng là bếp chính kỳ cựu của căn bếp nhỏ từ khi thành lập đến nay
ẢNH: HOÀI NHIÊN
Cô Hồng nói, hoạt động phát cơm miễn phí ở nhà thờ không phân biệt lương – giáo. Bất kể ai có hoàn cảnh khó khăn, dù thuộc tôn giáo nào cũng được nhận những phần cơm ấm áp nghĩa tình.
Chị em trong nhóm không xa lạ khi nghe cô Hồng mới đi đây, đi đó về sau một chuyến từ thiện. Cũng hơn 10 năm nay, cô Hồng cùng bạn bè đi khắp nơi, đến các vùng sâu, vùng xa để nấu cơm, phát quà bánh cho trẻ em nghèo.
“Mới bữa rồi tôi đi Kon Tum, nấu một ngàn phần bún riêu cho mấy đứa nhỏ. Thấy tụi nhỏ ăn ngon lành, tôi mừng dữ lắm”, cô kể lại.
Cơm canh được chuẩn bị nóng hổi để trao tận tay bà con có hoàn cảnh khó khăn
ẢNH: HOÀI NHIÊN
Đang cặm cụi cho cơm vào hộp, cô Nguyễn Dung (71 tuổi, ở Q.10) vui vẻ góp lời. Là cảm tình viên, cô đã gắn bó với bếp gần một năm qua.
Mỗi tuần, cô đều chạy xe từ Q.10 sang để phụ rửa rau, dọn bếp, chia cơm. “Hồi trẻ chỉ mong được nghỉ làm. Giờ mong đến thứ năm để được đi làm bác ái. Hôm nào bận ở nhà là thấy buồn buồn, thiếu thiếu”.
Cô Nguyễn Dung chỉ mong đến ngày thứ năm để đến nhà thờ làm công việc bác ái
Đến bếp nấu cơm từ sớm, cô Nguyễn Thị Phương Dung (61 tuổi, ở P.Cầu Kho, Q.1) luôn nở nụ cười hiền hậu. Vừa thoăn thoắt chia phần, cô vừa nhẹ nhàng nói:
“Tôi cảm thấy vui lắm, hạnh phúc lắm… Mỗi ngày được làm những điều thiện lành, lòng tôi thấy nhẹ nhàng, bình yên vô cùng”.
Suốt cả tuần, cô Phương Dung thường đi hát tại lễ đám tang theo ca đoàn và sử dụng số tiền bồi dưỡng đó để làm những hoạt động bác ái.
Những ngày không đi hát, cô lại tất bật phụ giúp tại điểm phát cơm 1.000 đồng dành cho người lao động nghèo. Riêng mỗi sáng thứ tư, cô đều có mặt từ sớm để cùng mọi người làm bánh mì, trao tận tay người thân của các em nhỏ đang điều trị gần Bệnh viện Nhi đồng 1.
Cô Phương Dung (thứ 2, từ trái sang phải) cảm thấy hạnh phúc vì được làm công việc thiện nguyện
“Khóc… vì được người đời thương”
Trong dòng người đến nhận cơm, có chị Nguyễn Thị Hồng Cưng (48 tuổi, quê Phú Yên) với gương mặt rám nắng, bước chân nhanh thoăn thoắt. Chị vừa đi bán vé số về, tranh thủ ghé nhà thờ nhận cơm rồi lại hối hả trở về phòng trọ.
“Tôi và gia đình cùng các cô chú lớn tuổi bán vé số thuê chung một căn trọ ở gần đây. Các cô chú lớn tuổi cũng bán vé số như tôi, người bận đi bán, người đi không nổi nên tôi xin nhận giùm luôn mấy phần”, chị nói.
Chị Hồng Cưng vừa đi bán vé số, vừa tranh thủ đến nhà thờ nhận cơm
Chồng chị cũng làm nghề bán vé số dạo, còn phòng trọ thì như một mái nhà chung của những người già có hoàn cảnh khó khăn, từ nhiều tỉnh đổ về Sài Gòn mưu sinh.
“Mỗi lần mang cơm về, ai cũng trông, cũng mừng. Cơm nhà thờ nấu ngon, đầy đặn, tươm tất, tử tế, ăn vô thấy ấm bụng lắm”, chị nói.
Trong nhóm người lặng lẽ đứng xếp hàng phía sau, có cụ bà Nguyễn Thị Hai (90 tuổi), dáng người nhỏ, lưng còng, chân đã yếu nhưng vẫn cố gắng cầm gậy, đi từng bước một đến nhà thờ nhận cơm.
Các cụ bà mừng hớn hở khi được nhận những phần cơm nóng hổi
ẢNH: HOÀI NHIÊN
“Người khỏe thì đi lẹ, còn tôi già rồi, đi bộ hơn nửa tiếng mới tới. Bữa nào không đi nổi, các cô chú ở nhà thờ mang cơm sang đến tận nhà cho tôi. Tôi quý cái tình cảm đó lắm. Có cơm ăn đã mừng, nhưng có người nhớ tới mình, tôi càng thấy ấm lòng hơn”, bà Hai nghẹn ngào.
Ông Lương Dịu Hòa (68 tuổi, ở P.Cầu Ông Lãnh) chạy xe ôm mưu sinh đã nhiều năm. Ông biết đến bếp cơm của nhà thờ cách đây hơn một năm. Từ đó đến nay, thứ năm nào ông cũng đến đều.
“Tôi nhận cơm cho mấy bà cụ trong hẻm, toàn người già yếu không ra khỏi nhà được. Mình khỏe, còn đi được thì đi giúp họ chút,” ông nói, đôi tay sạm nắng nhẹ nhàng ôm túi cơm, như ôm theo chút tình thương gửi đến những người xung quanh.
Cụ bà Hà Thị Đông (82 tuổi) chống gậy bước từng bước chậm rãi tới nhà thờ. Bà ở trong một ngôi nhà cấp 4 do ba mẹ để lại, sống cùng người con trai ngoài 50 tuổi mắc bệnh tâm thần.
Cô Bông vừa trao cơm, vừa hỏi han sức khỏe của bà Đông
Trước dịch Covid-19, bà đilượm ve chai kiếm tiền lo cho con. Nay tuổi cao, sức yếu, chỉ biết trông vào tình thương của hàng xóm và những bữa cơm như thế này.
“Có cơm là có niềm vui rồi. Tôi hạnh phúc lắm, sống đến tuổi này vẫn được người ta thương”, cụ cười, nhưng lại quay lưng nghẹn ngào.
Rồi cụ nói như để tự trấn an mình: “Mắt tôi yếu, hay chảy nước mắt, chứ không phải khóc đâu… Nhưng cũng có lúc tôi khóc thật. Khóc vì buồn, vì tủi, mà có khi cũng khóc vì mừng, vì được người thương”.
Sài Gòn vẫn rộng lắm, vẫn vội vã lắm. Nhưng chỉ cần ở một góc nhỏ nào đó có người nấu cơm để sẻ chia, có người chờ để nhận, thì thành phố ấy vẫn còn dịu dàng.
Bữa cơm miễn phí tại nhà thờ giáo xứ Cầu Kho đã thắp ngọn lửa tình thương, an ủi, vỗ về những phận đời khốn khó.
Ở TP.HCM nghĩa tình có hàng trăm căn bếp như thế. Mỗi ngày, mỗi giờ trôi qua, lại có hàng ngàn hộp cơm ấm lòng được trao đi. Ngọc Huyền
Tại sao ban đầu không được phép nhưng dần dà ảnh tượng lại được sử dụng công khai, thậm chí nó lại trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống đạo của người Ki-tô hữu? Đâu là mục đích và ý nghĩa đích thực trong việc tôn kính ảnh tượng? Tất cả những thắc mắc này phần nào được giải đáp trong bài viết sau đây.
Nếu đọc toàn bộ Thánh kinh, chúng ta sẽ nhận ra rằng cả Cựu ước lẫn Tân ước, không có chỗ nào nói đến việc tôn kính ảnh tượng. Thậm chí, trong Cựu ước, lề luật còn cấm tạc vẽ ảnh tượng. Điều đó cho thấy, ngay từ những ngày đầu truyền thống của Hội thánh chưa cho phép sử dụng ảnh tượng. Lý do tại sao không được phép sử dụng ảnh tượng? Tại sao ban đầu không được phép nhưng dần dà ảnh tượng lại được sử dụng công khai, thậm chí nó lại trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống đạo của người Ki-tô hữu? Đâu là mục đích và ý nghĩa đích thực trong việc tôn kính ảnh tượng? Tất cả những thắc mắc này phần nào được giải đáp trong bài viết sau đây.
1. Thánh kinh nói gì về ảnh tượng?
1.1. Cựu ước
Cấm tạc vẽ ảnh tượng
Người Do-thái tin vào một vị Thiên Chúa duy nhất. Ngài là Đấng vô hình, không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Thậm chí, nếu ai nhìn thấy Thiên Chúa thì có nguy cơ phải chết. Do đó, trong các bản văn Cựu ước nhiều lần chúng ta gặp thấy luật cấm tạc vẽ ảnh tượng Thiên Chúa: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20,3-5).
Một đàng, đây là việc người Do-thái tuyên xưng tính siêu việt tuyệt đối của Thiên Chúa so với những loài mà Ngài đã dựng nên. Với họ, Thiên Chúa không thể lẫn lộn với các loài thụ tạo khác. Thiên Chúa là một tinh thần vô hình (spirito invisibile). Đàng khác, để định ranh giới rõ ràng giữa người Do-thái và các dân tộc ngoại giáo, các nhà lập pháp thời Cựu ước hướng sự bận tâm căn bản đến việc không để lẫn lộn giữa truyền thống Do-thái với việc thờ tự của các dân tộc khác. Vì trong niềm tin sâu xa của mình, người Do-thái chỉ tin vào một Thiên Chúa duy nhất và vô hình. Thiên Chúa không có một khuôn mặt cụ thể để con người có thể mô phỏng theo. Trong mắt người Do-thái, các dân tộc khác thờ các vị thần của họ ngang qua các bức tượng hay hình vẽ đều bị xem là thờ ngẫu tượng. Do đó, người Do-thái thời Cựu ước cấm sử dụng ảnh tượng trong việc thờ phượng tại tư gia cũng như tại các hội đường và đền thờ. Tác giả Thánh vịnh 115 cho chúng ta thấy rõ điều đó:
“Sao chư dân lại nói: “Thiên Chúa chúng ở đâu?”
Thiên Chúa chúng ta ở trên trời, muốn làm gì là Chúa làm nên.
Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành.
Có mắt có miệng, không nhìn không nói,
có mũi có tai, không ngửi không nghe.
Có hai tay, không sờ không mó có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng.
Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy.
Nhà Ít-ra-en, hãy tin cậy Chúa, chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che.
Nhà A-ha-ron, hãy tin cậy Chúa, chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che.
Ai kính sợ Chúa, hãy tin cậy Chúa, chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che.
Chúa nhớ đến ta và sẽ ban phúc cả: sẽ ban phúc cho nhà Ít-ra-en, sẽ ban phúc cho nhà A-ha-ron,
sẽ ban phúc cho người kính sợ Chúa, cho người lớn cũng như kẻ nhỏ” (Tv 115,2-13).
Hình ảnh trong dân Do-thái
Chúng ta tự hỏi, trong dân Do-thái đã sử dụng hình ảnh để diễn tả về Thiên Chúa chưa? Mặc dù không phải là một hình ảnh cụ thể về hình dạng của Thiên Chúa, nhưng một cách nào đó, trong dân Do-thái đã sử dụng biểu tượng để diễn tả về Thiên Chúa. Đó là ngọn đèn bảy ngọn (menorah) được thắp sáng vào mỗi tối thứ Sáu. Người Do-thái sử dụng ngọn đèn bảy ngọn như là một sự gợi nhớ lại biến cố Thiên Chúa tự tỏ mình ra với ông Mô-sê trong bụi gai bốc cháy nhưng không bị thiêu rụi (x. Xh 3,2-4). Như vậy, chúng ta thấy rằng, tự chính nó ngọn đèn bảy ngọn không miêu tả hình dạng người của Thiên Chúa. Vì theo họ, Thiên Chúa là Đấng vô hình, không ai được thấy Thiên Chúa để có thể họa lại hình ảnh của Ngài. Hơn thế nữa, theo một số bản văn Cựu ước thì ai nhìn thấy Thiên Chúa sẽ có nguy cơ bị chết (x. Xh 3,6; 33,20; Is 6,5).
1.2. Tân ước
Ngôi Lời Nhập Thể là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình
Dù không nói đến việc cấm tạc ảnh tưởng một cách cụ thể như Cựu ước, nhưng trong Tân ước, chúng ta vẫn không tìm thấy bằng chứng nào cho biết các Ki-tô hữu thời các tông đồ có sử dụng ảnh tượng. Tuy nhiên, ở thời điểm Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Người đã đảm nhận một thân xác cụ thể. Người chính là hình ảnh hữu hình và sống động của Thiên Chúa vô hình của Cựu ước. Chúa Giê-su quả quyết: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Do đó, nếu chối bỏ việc tôn kính ảnh tượng thì cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận mầu nhiệm Nhập thể và đồng thời phủ nhận luôn các mầu nhiệm khác của Chúa Ki-tô. Như vậy, ngang qua mầu nhiệm Nhập thể, vị Thiên Chúa vô hình của Cựu ước giờ đây đã mang lấy một hình hài cụ thể nơi con người Giê-su. Giờ đây, con người có thể nhìn thấy, có thể đụng chạm, có thể hình dung được dung mạo của Thiên Chúa.
Các Ki-tô hữu tiên khởi
Những người Ki-tô đầu tiên phần lớn xuất thân từ người Do-thái, do đó họ bị ảnh hưởng bởi truyền thống Do-thái giáo. Họ vẫn chưa sử dụng ảnh tượng, vì trong đức tin và lòng đạo đức của người Do-thái không được phép làm điều đó. Cũng như người Do-thái, các tín hữu thời các tông đồ chuyên cần cầu nguyện với Thánh vịnh và thường xuyên lui tới đền thờ Giê-ru-sa-lem để cùng đọc và chia sẻ Sách thánh. “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau […], đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ” ( Cv 3,42.46).
Đồng thời, các tín hữu cũng tụ họp tại tư gia và cùng nhau cử hành bữa tối cuối cùng của Chúa để nhớ lại sự chết, phục sinh và chờ đợi ngày trở lại trong vinh quang của Người. “Họ siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện không ngừng […]. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2,42.46). Qua đó chúng ta thấy rằng, trong việc cử hành bữa tối cuối cùng của Chúa, các tín hữu thuở ban đầu đã sử dụng bánh và rượu như để diễn tả chính sự hiện diện đích thực của Đức Ki-tô. Vì họ tin rằng, mỗi khi họ hiện tại hóa lại việc cử hành mà Chúa Giê-su đã làm, thì họ được ăn chính Thịt và được uống chính Máu của Đức Ki-tô. Từ đây, Bí tích Thánh Thể là hình ảnh đích thực của Đức Ki-tô.
2. Theo dòng lịch sử Hội thánh: Từ giữa thế kỷ thứ I đến trước Công đồng Va-ti-ca-nô II
2.1. Ảnh tượng được phép sử dụng từ khi nào?
Như đã nói ở trên, lịch sử cho biết các tín hữu thời các tông đồ chưa sử dụng ảnh tượng trong việc thờ phượng. Nhưng sau lễ Ngũ tuần, chuyện gì đã xảy ra? Thánh Phao-lô đã đến thành A-thê-na và bắt đầu rao giảng: “Thưa quý vị người A-thê-na, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: Kính thần vô danh. Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17,22-23). Phao-lô đã sử dụng phương pháp hội nhập văn hóa để Phúc âm hóa dân thành A-thê-na. Vì người dân A-thê-na không theo truyền thống Do-thái giáo, cho nên đối với họ việc tôn thờ ảnh tưởng là điều hết sức bình thường. Thánh Phao-lô nhận ra rằng, trong tôn giáo và việc thờ phượng của dân thành A-thê-na, họ đã trực giác là có một vị thần, có điều họ không biết tên của vị thần mà họ đang tôn thờ là gì. Bởi vì Thiên Chúa không mạc khải cho họ và từ trước đến nay cũng không ai nói cho họ biết. Thánh Phao-lô được sai đến với họ. Sau một thời gian quan sát, Thánh Phao-lô đã chỉ cho họ biết, vị thần mà người A-thê-na đã vẽ ảnh hay tạc tượng để tôn thờ trong những nơi thờ phượng là một vị Thần Hữu Danh. Phao-lô không yêu cầu họ phá bỏ các ảnh tượng nhưng giải thích họ biết đó là Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta phải tôn thờ. Kể từ đây, có lẽ việc tôn kính ảnh tượng bắt đầu được phép sử dụng. Khởi đi từ A-thê-na rồi sau đó lan dần ra khắp đế quốc La-mã.
Sau biến cố Ngũ tuần, các tông đồ tản ra khắp nơi để rao giảng Tin mừng. Được Thánh Thần của Đấng Phục Sinh thúc đẩy, các ngài can đảm đến với vùng đất của dân ngoại để nói về Chúa cho họ. Không lâu sau đó, học thuyết Ki-tô giáo được lan rộng tới tận Địa Trung Hải và vùng phụ cận thuộc thế giới Hy-lạp – La-mã. Tại đây, việc sử dụng ảnh tượng đã được nới lỏng. Bởi vì, cũng như người A-thê-na, người dân nơi đây trong văn hóa và truyền thống tôn giáo, họ cũng đã sử dụng hình ảnh trong việc thờ phượng. Dần dần các tông đồ bắt đầu nhận ra và cảm thấy giá trị sư phạm của ảnh tượng. Không những cấm sử dụng mà các ngài còn quay sang sử dụng ảnh tượng như một phương tiện để rao giảng Tin mừng. Thật vậy, ảnh tượng như là cách thể để diễn tả về Thiên Chúa cho những người mù chữ, người ít học. Ảnh tưởng trở thành những bài giảng trong thinh lặng. Từ đó, ảnh tưởng trở thành trung tâm của phụng vụ By-zan-ti-nê.
2.2. Ngôn ngữ biểu tượng thời kỳ bị bách hại
Suốt gần 3 thế kỷ đầu, Hội thánh đã chịu bách hại cách tàn khốc. Vì chưa được công nhận là một tôn giáo chính thức, cho nên giai đoạn này, khi người Ki-tô hữu chết, họ được chôn trong nghĩa trang của người ngoại giáo. Nhưng để phân biệt phần mộ của người Ki-tô hữu và người ngoại giáo, các Ki-tô hữu tiên khởi đã có sáng kiến dùng ngôn ngữ biểu tượng để đánh dấu và tuyên xưng đức tin của mình. Một vài biểu tượng thường thấy nơi các hầm mộ đó là: con cá[1], chữ X (chi) và P (roh) xếp chồng lên nhau[2], ông Giô-na[3], người thanh niên vác chiên trên vai[4]… Thông thường, các nghĩa trang cổ là một vùng đất trũng nằm ở ngoài thành phố và được đào sâu xuống thành từng tầng để chôn cất người chết, có nơi sâu đến 30 mét. Người ta gọi đó là catacumba[5] (nghĩa trang, hầm mộ). Chúng ta thấy rằng, giai đoạn này các Ki-tô đã sử dụng hình ảnh nhưng những hình ảnh đó chỉ mang tính ngôn ngữ biểu tượng hơn là để tôn kính.
Biểu tượng con cá
Biểu tượng chữ X (chi) và P (roh) xếp chồng lên nhau
Biểu tượng ông Giô-na
Biểu tượng người thanh niên vác chiên trên vai
2.3. Cấm sử dụng ảnh tượng thế kỷ VIII ở đế quốc By-zan-ti-nê
Chủ nghĩa bài trừ ảnh tượng thánh dưới thời Hoàng đế Lê-ô III (717-741)
Cuộc chiến chống lại việc tôn kính ảnh tưởng xảy ra dưới thời Lê-ô III, ông là hoàng đế của đế quốc Đông La-mã từ 717-741. Chúng ta biết rằng, sau Công đồng chung Ni-cê-a I năm 325, Hội thánh ở Đông La-mã xuất hiện nhiều giáo phái và phong trào chống phá Hội thánh, trong đó có phong trào bài trừ ảnh tượng thánh. Một số giám mục ở vùng Tiểu Á theo chủ nghĩa bài trừ ảnh tượng đã gây áp lực lên Hoàng đế Lê-ô III khiến ông ra lệnh cho toàn đế quốc không được phép sử dụng ảnh tượng. Cùng với đó, trong những năm này thiên tai xảy ra thường xuyên trong đế quốc, trong số đó có một cơn sóng thần lớn đã tàn phá thành phố và giết chết nhiều người. Người ta đồn tai nhau rằng, đây là sự thịnh nộ của thần thánh trong việc sử dụng ảnh tượng. Với hai lý do đó, năm 726, Hoàng đế Lê-ô III ra sắc lệnh cấm sử dụng ảnh tượng trong toàn đế quốc.
Thánh Gio-an Đa-mas-cô, một người khôn ngoan và có tầm ảnh hưởng đã can đảm đứng lên bảo vệ lập trường của Hội thánh trong việc tôn kính ảnh tượng. Ngài khẳng định rằng: Nếu phủ nhận việc tôn kính ảnh tượng đồng nghĩa với việc chối bỏ các mầu nhiệm của Chúa Ki-tô.
Ngoài ra, Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô II cũng cực lực phản đối sự can thiệp của hoàng đế trong lãnh vực thuộc thẩm quyền của Hội thánh. Ngài đã viết thư gửi đến hoàng đế để nói lên lập trường cứng rắn của mình. Nội dung bức thư có đoạn viết: “Thưa Hoàng đế, ông biết đó, những vấn đề liên quan đến giáo lý của Hội thánh không thuộc thẩm quyền của Hoàng đế, mà là của các giám mục. Vì thế, cũng như các giám mục không can thiệp vào các vấn đề liên quan đến chính trị của đế quốc thì Hoàng đế cũng không có thẩm quyền can thiệp vào các vấn đề liên quan đến các tín điều và chân lý đức tin của Hội thánh”.
Chủ nghĩa bài trừ ảnh tượng tiếp tục dưới thời Hoàng đế Cos-tan-ti-nô V (741-775)
Sau cái chết của Lê-ô III, con trai của ông là Cos-tan-ti-nô V lên kế vị. Ông này tiếp tục ủng hộ quan điểm bài trừ ảnh tượng của vua cha. Ông lập luận rằng, con người không thể tái sao chép bản tính Thiên Chúa của Đức Ki-tô. Vì thế, ông ra lệnh ảnh tượng không được phép sử dụng trong toàn đế quốc. Năm 754, ông triệu tập một công đồng tại Hi-ê-ri-a với sự tham dự của 338 giám mục, đa sống trong số này theo chủ nghĩa bài trừ thánh tượng. Công đồng này kết án việc sử dụng ảnh tượng và các việc tôn kính ảnh tượng. Và tuyên bố rằng, Bí tích Thánh Thể là hình ảnh duy nhất và đích thực của Đức Ki-tô.
Mặc dù bị phản đối bởi các giám mục không tham dự công đồng, nhưng Cos-tan-ti-nô V vẫn tiếp tục áp dụng những kết luận của công đồng trong toàn lãnh thổ thuộc quyền mình. Ông bắt đầu ra lệnh cho đập phá ảnh tượng và xóa bỏ việc tôn kính ảnh tượng. Vì thế, nhiều bức tranh cổ, nhiều bức bích họa và tranh khảm quý giá trong các nhà thờ đã bị phá bỏ trong giai đoạn này.
2.4. Cho phép sử dụng ảnh tượng với Công đồng chung Ni-cê-a II (787)
Sau khi Cos-tan-ti-nô V qua đời, Lê-ô IV lên ngôi kế vị (775-780). I-rê-nê là hoàng hậu. Bà là người trong quá khứ đã âm thầm tôn kính ảnh tượng. Nhờ tầm ảnh hưởng và sự tác động của bà mà sự bách hại và đập phá thánh tượng không còn gay gắt như trước đây. Năm 780 hoàng đế qua đời vì một cơn bạo bệnh. Con trai của ông lúc đó là Cos-tan-ti-nô VI mới 6 tuổi, vì thế hoàng hậu I-rê-nê đảm nhận vai trò nhiếp chính. Bà đã viết thư cho Giáo hoàng với mong muốn được nối lại mối tương quan với Tây La-mã. Cùng với đó, vì muốn thiết lập nền hòa bình trong đế quốc Đông La-mã, nên bà đã tìm mọi cách để loại bỏ chủ nghĩa bài trừ thánh tượng. Do đó, năm 787 bà đã triệu tập công đồng chung lần thứ VII của Hội thánh tại Ni-cê-a (Công đồng Ni-cê-a II) để thống nhất việc sử dụng thánh tượng trong Hội thánh. Công đồng này đã loại bỏ những gì được quyết định trong Công đồng Hi-ê-ri-a. Đồng thời khẳng định rằng, dựa theo truyền thống thì các ảnh tượng thánh có thể được tôn kính (venerare) mà không được tôn thờ (adorare). Được phép thể hiện việc tôn kính bằng việc thắp đèn, dâng hương và quỳ bái trước thánh giá, ảnh tượng Chúa Ki-tô, Đức Mẹ, các thiên thần và các thánh. Công đồng cũng ra vạ tuyệt thông đối với những ai theo chủ nghĩa bài trừ thánh tượng.
Đặc biệt, Công đồng Ni-cê-a II đã phân biệt hai hạn từ quan trọng liên quan đến tín lý đó là: tôn thờ (λατρεία-latria) và tôn kính (δουλεία-dulia). Latria[6]– tôn thờ là hạn từ chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa. Đối tượng đầu tiên của việc tôn thờ là chính Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong khi đó, dulia – tôn kính, dành cho các thiên thần và các thánh. Đối với Đức Mẹ, vì Mẹ là một nhân vật đặc biệt trong lịch sử cứu độ nên được tôn kính trọng thể, gọi là iperdulia. Đối với các thánh tích, thánh giá, ảnh tượng, Hội thánh Công Giáo diễn tả việc thờ kính liên quan (culto relativo), nghĩa là hướng về nhân vật mà các thánh tích, thánh giá, ảnh tưởng thánh đó có liên quan đến. Vì thế, ở đây có lưu ý quan trọng khi đứng trước ảnh tượng thánh thì chúng ta không được dừng lại ở việc ngắm vẻ đẹp và nghệ thuật của hình ảnh đơn thuần mà phải vượt lên trên hình ảnh để hướng lòng đến chủ thể được diễn tả trong ảnh tượng thánh đó. Nghĩa là, chúng ta tôn kính chủ thể được miêu tả trong ảnh tượng thánh chứ không phải chỉ dừng lại ở hình ảnh. Nhờ việc chiêm ngắm ảnh tượng mà chúng ta thêm lòng yêu mến và bắt chước các nhân đức cao cả của các ngài để sống đức tin một cách xác tín hơn. Nếu tôi cầu nguyện trước bức ảnh của Đức Mẹ, nghĩa là tôi đang cầu nguyện với chính Đức Mẹ chứ không phải đối với hình ảnh có Đức Mẹ.
Khi nhắc tới ảnh tượng, người ta thường nghĩ ngay tới những tác phẩm được làm bởi tay con người. Nhưng lịch sử cho thấy, tồn tại trong Hội thánh nhiều bức tranh không do con người vẽ, mà đến một cách tự nhiên. Người ta gọi đó là ἀχειροποίητα[7]. Chúng ta có thể nhắc tới một vài bức tranh kiểu acheropita nổi tiếng như: Khăn liệm thành Tu-rin, Đức Mẹ Gua-đa-lu-pê ở Mê-xi-cô, Khuôn mặt Chúa Ki-tô[8] trong Đền thờ Cầu Thang Thánh ở Rô-ma, Khuôn mặt Chúa Ki-tô trong chiếc khăn của bà Vê-rô-ni-ca[9] ở Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô…
Khuôn mặt Chúa Ki-tô trong chiếc khăn của bà Vê-rô-ni-ca
3. Công đồng Va-ti-ca-nô II
Đặt nền tảng trên những quyết định của Công đồng Ni-cê-a II và thần học về mầu nhiệm Nhập thể, Công đồng Va-ti-can-nô II tiếp tục khuyến khích việc tôn kính ảnh tượng của Chúa, Đức Mẹ, các thiên thần và các thánh trong Hội thánh. Các nghị phụ công đồng đã nhận ra được tầm quan trọng của việc tôn kính ảnh tưởng trong đời sống đức tin và lòng đạo đức của người tín hữu. Vì thế, Hiến chế về Phụng vụ thánh, Sacrosanctum Concilium, đã dành một chương để nói về nghệ thuật thánh và cách thực hành. Hiến chế đề cao vẻ đẹp của nghệ thuật trong việc huấn luyện đức tin cho các tín hữu. Vì “tự bản chất, nghệ thuật thánh diễn tả cách nào đó vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại, và góp phần ca tụng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách không nhằm chủ đích nào khác ngoài sự góp phần tích cực giúp tâm trí con người thành kính hướng về Thiên Chúa. Theo truyền thống, các thánh được tôn kính trong Hội thánh và các thánh tích đích thực cũng như ảnh tượng của các ngài vẫn được sùng kính. Vì thế, việc đặt ảnh tượng thánh trong các thánh đường cho các tín hữu tôn kính vẫn được duy trì. Tuy nhiên, các ảnh tượng không nên quá nhiều và phải được bày trí thích hợp, để không phá hỏng lòng mộ mến nơi đoàn dân Kitô giáo, đồng thời cũng không nhượng bộ thói sùng bái lệch lạc” (x. SC, số 111, 122, 125).
4. Giáo lý của Hội thánh Công giáo
Việc nhập thể của Con Thiên Chúa đã mở đầu một “nhiệm cục” mới của các ảnh tượng (Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1159). Trong Chúa Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể, diện mạo của Thiên Chúa vô hình trong Cựu ước đã trở nên tỏ tường. Vì thế, việc sử dụng ảnh tượng không bao giờ là một sự tôn thờ ngẫu tượng, nhưng đây là cách thể để tôn vinh Thiên Chúa, Đấng mạc khải trọn vẹn nơi Chúa Ki-tô Giê-su. “Tất cả các dấu chỉ của việc cử hành phụng vụ đều quy hướng về Chúa Ki-tô: kể cả các ảnh tượng của Mẹ Thiên Chúa và của các thánh. Thật vậy, các ảnh tượng này nói về Chúa Ki-tô, Đấng được tôn vinh nơi các ngài. Các ảnh tưởng này cho thấy “ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1), các ngài đang tiếp tục tham dự vào công trình cứu độ trần gian và chúng ta được liên kết với các ngài, nhất là khi cử hành các bí tích. Qua ảnh tượng của các ngài, điều được mạc khải cho đức tin của chúng ta là, con người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa”, cuối cùng được biến hình nên “giống như Thiên Chúa, và cả các Thiên Thần, là những vị đã được quy tụ lại trong Chúa Ki-tô”” (Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1161).
5. Ảnh tượng thánh trong phụng vụ
Trong phạm vi phụng vụ thánh, các ảnh tượng thánh đóng vai trò rất quan trọng, vì chúng góp phần giúp cho việc cử hành phụng vụ của cộng đoàn thêm phần sốt mến hơn nhờ chiêm ngắm các mầu nhiệm đức tin ngang qua các tác phẩm nghệ thuật thánh. Vì thế, Hội thánh khuyến khích, theo chừng mực có thể, nên trang hoàng các ảnh tượng thánh trong các nhà thờ và nhà nguyện. Việc này không chỉ để làm tăng thêm tính thẩm mỹ nghệ thuật của các nơi thờ phượng, mà hơn thế nữa, nhằm giúp cho các tín hữu có thêm “chất liệu” để cầu nguyện và gắn kết hơn với các mầu nhiệm được cử hành. Liên quan đến vấn đề này, Quy chế Sách lễ Rôma có những khẳng định và hướng dẫn cụ thể như sau: “Trong phụng vụ tại thế, Hội thánh tham dự và hưởng trước vào phụng vụ trên trời được cử hành tại thành thánh Giêrusalem, nơi mà Hội thánh lữ hành đang tiến về, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và là nơi mà khi kính nhớ các thánh, Hội thánh hy vọng sẽ kết hợp và thông phần với các ngài. Bởi thế, theo truyền thống rất cổ kính trong Hội thánh, được phép đặt ảnh tượng Chúa, Đức Trinh Nữ Maria, và các thánh trong các nhà thờ để tín hữu tôn kính. Các ảnh tượng thánh được đặt trong nhà thờ theo cách thức làm sao dẫn các tín hữu hướng đến các mầu nhiệm của đức tin mà họ đang cử hành. Vì thế, phải chú ý sao cho các ảnh tượng thánh không quá nhiều và phải xếp đặt thế nào để cộng đoàn khỏi chia trí khi tham dự những nghi lễ phụng vụ. Mỗi vị thánh chỉ nên có một ảnh hoặc tượng trong cùng một nhà thờ. Cách chung, trong việc trang trí và sắp xếp nhà thờ liên quan đến các ảnh tượng, phải chú tâm đến lòng đạo đức của toàn thể cộng đoàn, cũng như vẻ đẹp và sự trang trọng của các ảnh tượng» (QCSL, 318).
6. Kết luận
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, từ việc cấm tuyệt đối theo truyền thống Do-thái, đến sự chống đối của lạc giáo bài trừ ảnh tượng và sự cấm đoán của quyền lực thế quyền ở thế kỷ thứ VIII, thế nhưng cho đến nay, việc thực hành tôn kính ảnh tượng vẫn luôn tìm thấy chỗ đứng trong Hội thánh. Thật vậy, ngay sau khi Hội thánh nhận ra giá trị của nghệ thuật trong việc sống và gìn giữ đức tin Ki-tô giáo, ảnh tượng là một phần không thể thiếu trong việc bài trí trong các nhà thờ. Ngang qua các bức sơn màu, tranh khảm, bức bích họa, tượng tạc trên đá hay gỗ, họa ảnh và kính màu được bài trí cách hợp lý trong nhà thờ giúp người tín hữu dễ dàng vươn tới Thiên Chúa hơn trong lúc họ cầu nguyện. Ngoài ra, các tác phẩm nghệ thuật thường kể về cuộc đời hay một biến cố được nói tới trong Sách thánh và trong lịch sử của Chúa Giê-su, Đức Mẹ và các thánh, cho nên chúng trở thành những bài giảng, những bài giáo lý hữu ích cho nhiều người, đặc biệt là những người mù chữ. “Việc chiêm ngắm các ảnh tượng thánh, cùng với việc suy niệm Lời Chúa và việc ca hát các thánh thi phụng vụ, sẽ tạo nên một sự hòa hợp các dấu chỉ trong cuộc cử hành, làm cho mầu nhiệm được cử hành in sâu vào tâm khảm các tín hữu, rồi được biểu lộ ra trong đời sống mới của họ” (Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1162). Qua đó nói lên tầm quan trọng của việc tôn kính ảnh tưởng trong đời sống đức tin của người Ki-tô hữu. Không quan trọng ảnh tượng được tác tạo trực tiếp bởi đôi tay và khối óc của con người hay con người đón nhận gián tiếp từ tự nhiên, mà quan trọng là khi chúng ta tôn kính ảnh tượng, chúng ta không được dừng lại ở việc chiêm ngắm vẽ đẹp nghệ thuật, nhưng mà vượt lên trên nó, vươn tới chiêm ngắm chủ thể được mô tả trong ảnh tượng. Đó là mục đích và ý nghĩa đích thực của việc tôn kính ảnh tượng thánh.
An Bình, C.Ss.R.
———-
[1] Từ con cá trong tiếng Hi lạp là ΙΧΘΥΣ. Những mẫu tự này trùng với các chữ viết tắt của cụm từ: ἸησοῦςΧριστὸς, ΘεοῦΥἱὸς, Σωτήρ – Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Vì thế, khi vẽ biểu tượng con cá là người tín hữu tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giê-su Ki-tô.
[2] Biểu tượng của chữ X (chi) và P (roh) xếp chồng lên nhau để chỉ danh Chúa Ki-tô. Đây là hai chữ cái đầu tiên của từ Χριστός trong tiếng Hy lạp, có nghĩa là Chúa Ki-tô.
[3] Chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy hình ảnh của ông Giô-na trên các bức tường trong hầm mộ đây là cách mà các Ki-tô tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm phục sinh. Hình ảnh này nhắc nhớ lại biến cố ông Gio-na ở trong bụng cá ba ngày điều đó cũng ám chỉ đến Chúa Ki-tô. Đấng đã chịu chết, chịu mai táng trong mồ và ngày thứ 3 Người đã trỗi dậy.
[4] Hình ảnh một người trẻ vác chiên trên vai, đối với người ngoại giáo đó đơn giản chỉ là một người chăn chiên bình thường, nhưng với người Ki-tô hữu đó lại là vị Mục Tử Nhân Lành, là chính Chúa Ki-tô.
[5] Từ catacumba (La-tinh), catacomba (Ý), catacomb (Anh) có nghĩa là hầm mộ hay nghĩa trang dưới lòng đất. Nhưng trong tiếng Việt, người ta thường gọi catacumba là hang toại đạo để chỉ nơi trú ẩn của các Ki-tô hữu trong thời kỳ bách hại. Theo các nhà chuyên môn, có lẽ đây là cách hiểu và cách gọi chưa thực sự chính xác về catacumba và dễ gây ra hiểu nhầm.
[6]Latria và dulia là phiên âm theo tiếng Hy-lạp. Tương đương với: latriam và honor (tiếng La-tinh), adorazione và venerazione (tiếng Ý), adoration và veneration (tiếng Anh).
[7]ἀχειροποίητα (Acheropita) là một từ ghép của χείρo (bàn tay) và ποιείν (làm, chế tạo). ἀχειροποίητα có nghĩa là không được vẽ bởi tay con người.
[8] Bức ảnh thánh này được đặt ở trong nhà nguyện dành riêng cho Giáo Hoàng suốt gần 10 thế kỷ. Trước đây, khi Đức Giáo Hoàng còn ở Dinh La-tê-ra-nô, nhà nguyện này đặt rất nhiều thánh tích, trong đó có thủ cấp của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô (ngày nay chúng được đặt trong Vương cung Thánh đường Gioan La-tê-ra-nô), cho nên người ta gọi đây là nơi thánh của những nơi thánh hay nơi linh thiêng nhất (Sancta Sanctorum) (trong đền thờ Giê-ru-sa-lem, Sancta Sanctorum gọi là Nơi Cực Thánh, vì nơi đó có đặt hòm bia giao ước, chỉ vị thượng tế mới được vào đó mỗi năm một lần và ngày Lễ Xá Tội). Thật vậy, ở dưới bàn thờ của nhà nguyện này, chúng ta nhìn thấy hàng chữ: “Non c’è luogo più santo di questo” nghĩa là không có nơi nào thánh hơn ở đây.
[9] Bức ảnh thánh này được đặt ở trong một nhà nguyện của Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô. Hằng năm, vào Chúa Nhật thứ V Mùa Chay bức ảnh này sẽ được trưng bày cho các tín hữu tới chiêm ngắm và cầu nguyện.