Home Blog Page 328

3 vị Tổng thống vĩ đại nhất Hoa Kỳ

Trong số các đời tổng thống Mỹ qua hơn 200 năm lịch sử, Abraham Lincoln, George Washington và Franklin D. Roosevelt được nhiều học giả đánh giá là có những cống hiến to lớn nhất cho nước Mỹ…
.
1. George Washington (1732-1799)
Người khai quốc và cha già của nhân dân các dân tộc Hoa Kỳ
– Ông là Tổng tư lệnh Lục quân Lục địa trong cuộc chiến đấu chống đô hộ của Thực dân Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ năm 1775–1783.
– Ông đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, được 13 tiểu bang thông qua.
– Ông được Quốc hội Mỹ chọn lựa làm Tổng thống Hoa kỳ đầu tiên, 2 nhiệm kỳ (1789–1797). Trong suốt hai nhiệm kỳ làm tổng thống, ông đã tiến hành xây dựng quốc gia hùng mạnh, giàu tài chính mà vẫn tránh được chiến tranh.

“Một khi quyền tự do ngôn luận bị tước mất, thì chúng ta trở nên câm lặng và ngu ngốc, như chú cừu đang bị dẫn đến lò mổ” – George Washington
.
Bài diễn văn chính trị từ biệt của Washington dài 32 trang viết tay gửi công chúng ngày 19/9/1796 là một trong những lời tuyên bố có ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng hòa, tinh thần Mỹ và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử chính trị Mỹ.
Thứ nhất, Washington tuyên bố không tranh cử nhiệm kỳ thứ ba.
Thứ hai, Washington cảnh báo chống lại sự ảnh hưởng của ngoại quốc trong các vấn đề đối nội và sự can thiệp của Mỹ trong các vấn đề của châu Âu. Ông khuyên Mỹ nên làm bạn và giao thương với tất cả các quốc gia nhưng cảnh báo chống lại sự can thiệp của Mỹ tại các cuộc chiến tranh tại châu Âu hay gia nhập vào các liên minh “vướng bận” dài hạn.
Thứ ba, ông cảnh báo các bè phái hay đảng chính trị có thể trở thành một mối đe dọa với nền thống nhất và kêu gọi mọi người nên vượt ra ngoài đảng phái và phục vụ lợi ích chung. Ông nói Hoa Kỳ phải tập trung chủ yếu vào những lợi ích của Mỹ. Một quan điểm gây tiếng vang trong bối cảnh chính trị phân cực sau này.
Kết thúc bài phát biểu, Tổng thống Washington đã nhận lại các sai sót trong chính quyền và xin dân chúng Mỹ lượng thứ về những khiếm khuyết của mình.
Washington là một thành viên của Giáo hội Anh giáo, đồng thời, năm 1752 Washington được thu nhận vào Hội Tam Điểm.

Tem và đồng đô la có hình ảnh Washington (Ảnh: Bùi Quang Minh)
.
Sinh nhật 106 năm , hài cốt của ông được đưa vào ngôi mộ được xây dựng thành phố Philadelphia. Sau khi làm lễ, cửa hầm mộ bên trong được đóng lại và chìa khóa mở ngôi mộ được quăng xuống sông Potomac.
.
2. Thomas Jefferson (1743 – 1826)
Là Tổng thống thứ ba của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 2 nhiệm kỳ từ 1801 đến 1809
Là người đưa kiến nghị của bang Virginia với Hội nghị Lục địa, được công bố trong cuốn sách nhỏ “Quan điểm tóm tắt về các quyền của nước Mỹ” đưa ông lên vị trí nhà lãnh đạo cách mạng Mỹ.
Là người được lựa chọn để viết dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ năm 1776 (ủy ban 5 người).
Là người xây dựng bản hiến pháp và các đạo luật tự do ngôn luận, tôn giáo, báo chí… cho quê hương bang Virginia.

“Khi người dân sợ chính phủ, chúng ta có độc tài. Khi chính phủ sợ người dân, chúng ta có tự do” – Thomas Jefferson
.
Là người công bố năm 1789 tư tưởng dân chủ mà dựa vào đó Đảng Dân chủ Hoa kỳ được xây dựng.
Là người phát biểu 3 câu nói:
“- Lạy chúa! Nhân dân tôi biết quá ít về những thứ quý giá họ đang có mà không có một dân tộc nào trên thế giới được tận hưởng!
– Cái cây tự do phải được tưới theo thời gian với những giọt máu của người ái quốc và độc tài.
– Khi người dân sợ chính phủ, chúng ta có độc tài. Khi chính phủ sợ người dân, chúng ta có tự do.”
.
Là một nhà canh nông có nhiều phát minh như máy cày, máy gặt đập, đồng hồ tính giờ “thi kế”…
Là kiến trúc sư vẽ kiểu nhà cho Tòa nhà Monticello, Điện Capitol ở Richmond, các tòa nhà ban đầu của Đại Học Virginia.
Là người dành những năm cuối đời thiết lập trường Đại học Virginia.
.
Trên mộ bia được ông chọn từ trước, có mang dòng chữ:
“Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của Thomas Jefferson, tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, của Đạo luật Virginia về tự do tín ngưỡng, và là cha đẻ của trường Đại học Virginia”.

Tem và đồng đô la có hình ảnh Thomas Jefferson (Ảnh: Bùi Quang Minh)
.
Ông mãi mãi là một trong 3 nhà lãnh đạo xuất sắc nhất Hoa Kỳ cùng với George Washington, Abraham Lincoln.
.
3. Abraham Lincoln (1809 – 1865)
– là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm 1861 đến khi bị ám sát năm 1865.
– Ông thành công trong nỗ lực lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng hiến pháp, quân sự, và đạo đức – cuộc Nội chiến Mỹ – duy trì chính quyền Liên bang, đồng thời chấm dứt chế độ nô lệ, và hiện đại hóa nền kinh tế, tài chính của đất nước.
– Lincoln công bố Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ và vận động thông qua Tu chính án thứ Mười ba nhằm bãi bỏ chế độ nô lệ, năm 1861 nhờ đó ông đã giúp cho hơn 4 triệu nô lệ được tự do.
Kết thúc chiến tranh, chủ trương một quan điểm ôn hòa nhằm tái thiết và nhanh chóng tái thống nhất đất nước thông qua chính sách hòa giải và bao dung trong một bối cảnh phân hóa đầy cay đắng với hệ quả kéo dài.

Tôi tiêu diệt kẻ thù của mình bằng cách biến họ thành bạn” – Abraham Lincoln.
.
Lincoln liên tục được cả giới học giả và công chúng xếp vào danh sách ba vị tổng thống vĩ đại nhất của nước Mỹ.
BÀI DIỄN VĂN VĨ ĐẠI NHẤT, LÀ BẢN TUYÊN NGÔN CỦA TINH THẦN MỸ “HIẾN MÌNH CHO CÁC NGUYÊN LÝ CAO CẢ CỦA TINH THẦN DÂN TỘC, QUYỀN BÌNH ĐẲNG, TỰ DO VÀ DÂN CHỦ” & ĐƯỢC TRÍCH DẪN NHIỀU NHẤT TRONG LỊCH SỬ NƯỚC MỸ
Diễn văn Gettysburg là diễn từ nổi tiếng nhất của Tổng thống Abraham Lincoln, và là một trong những bài diễn văn được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Được đọc tại Lễ Cung hiến Nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia ở Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania ngày 19/11/1863, trong thời Nội chiến Mỹ, bốn tháng rưỡi sau khi xảy ra mặt trận Gettysburg đẫm máu trong đó quân đội Liên bang giành chiến thắng vẻ vang.
.
“Tám mươi bảy năm trước, ông cha ta đã tạo dựng trên lục địa này một quốc gia mới, được thai nghén trong Tự do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng.
.
Ngày nay, chúng ta đang tiến hành một cuộc nội chiến vĩ đại nhằm thử thách quốc gia này, hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, xem có đủ quyết tâm theo đuổi lý tưởng mà đất nước ấy đã được thai nghén và cung hiến cho. Chúng ta gặp nhau ở đây, trên bãi chiến trường này. Chúng ta đến đây để cung hiến một phần của mảnh đất, nơi yên nghỉ cuối cùng của những người đã hiến dâng mạng sống mình để Tổ quốc được sống. Đó là điều chúng ta cần phải làm.
.
Song, trong một ý nghĩa lớn lao hơn, chúng ta không thể cung hiến, cũng không thể thánh hóa mảnh đất này. Những con người dũng cảm, đang sống hay đã chết, là những người từng chiến đấu ở đây, đã cung hiến nó, họ đã làm điều mà những con người yếu đuối như chúng ta không thể làm gì thêm hơn nữa. Thế giới sẽ không quan tâm, cũng chẳng nhớ đến những gì chúng ta đang nói ở đây, nhưng thế giới sẽ không bao giờ quên những gì họ đã làm tại đây.
.
Ấy là cho chúng ta, những người còn sống, cần cống hiến mình cho chính nghĩa vẫn chưa hoàn tất, mà những người từng chiến đấu ở đây đã cống hiến đời mình để sự thành công của chính nghĩa ấy mau đến.
.
Ấy là cho chúng ta, những người đang hiện diện ở đây, tiếp nhận trọng trách đang đặt trước mặt chúng ta – chúng ta tiếp nhận từ những người đã khuất hiện đang được vinh danh lòng tận tuỵ với chính nghĩa mà họ đã cống hiến bằng chính sinh mạng mình – ngay tại đây, chúng ta quyết tâm không để họ chết vô ích – đất nước này, dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, sẽ sản sinh một nền tự do mới – và chính quyền này của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất…”
— Abraham Lincoln –
.
Tem và đồng đô la có hình ảnh Abraham Lincoln (Ảnh: Bùi Quang Minh)

Lễ Phục Sinh (Easter Day)

1. Ý nghĩa của ngày Lễ Phục Sinh (Easter day)
Lễ Phục sinh theo đạo Thiên chúa giáo, là lễ mừng Chúa Jésus Christ sống lại sau ba ngày. Lễ này tiếp theo Tuần Thánh mà người ta tổ chức cho bữa ăn cuối cùng của Chúa Jésus với Tông đồ (ngày thứ Năm: La Cène) và ngày Chúa chết trên thập tự giá (thứ Sáu).
.
.
Lễ Phục sinh là lễ mùa Xuân, hy vọng và sự tái sinh.
Từ xưa lắm, mọi người mừng sự trở lại của mùa Xuân sau những tháng dài lạnh, cây cối bắt đầu đâm chổi nẩy lộc.
Lễ Phục sinh dựa nhiều vào nguồn gốc lễ Vượt qua của Do Thái giáo. Người Kitô hữu tin rằng cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu đã hoàn thành những gì mà biến cố Xuất Hành đã tiên báo: giải phóng con người khỏi tội lỗi và đưa họ vào cuộc sống do Thiên Chúa trao ban.
Ở xứ Do Thái “Israel”, đây là một ngày lễ tôn giáo được tôn kính rất mực. Hằng ngàn tín đồ sùng đạo từ khắp thế giới đổ về Thánh Địa Jerusalem.
.
2. Ngày Lễ Phục Sinh tại Việt Nam
Đa phần tín đồ Thiên Chúa Giáo Việt Nam theo đạo Công Giáo, với giáo triều đặt tại Vatican. Từ xa xưa thời nhà Nguyễn, người công giáo đã biết… sáng chế ra nhiều nghi thức Phục Sinh có thể nói mang không ít nét văn hoá Việt. Ở miền Bắc, có thể kể riêng 2 loại nghi thức khá độc đáo là “Ngắm Lễ” và “Ngắm 15 Sự Thương Khó”.
.
3. Các biểu tượng trong ngày lễ Phục Sinh
– Lửa phục sinh (Osterfeuer/Easterfire)
Người ở vùng quê sống đời nông nghiệp vui mừng mùa đông giá lạnh đi qua, xuân đến bắt đầu gieo trồng rồi gặt hái, nguồn gốc lửa phục sinh ngày xưa được đốt lên từ những cánh đồng trong đêm đầu tiên phục sinh, từ đó sẽ thắp lên ánh nến phục sinh. Ngọn lửa sưởi ấm mùa đông dài lạnh lẽo vì thời xa xưa không đủ tiện nghi như ngày nay có lò sưởi điện.
.
– Nến phục sinh (Osterkerze/Eastercandle)
Nến Phục sinh được đốt lên từ đống lửa trước nhà thờ trong đêm Phục sinh được thánh hóa theo phong tục lâu đời. Nến đốt sáng được rước vào nhà thờ. Ngày Phục sinh cây nến có ghi hình thánh giá hay khắc tia ánh sáng mặt trời hay dòng nước.
.
– Trứng (Ostereier/Easter)
Từ thế kỷ thứ 12, thứ bảy Phục sinh Ostersamstag người ta luộc chín trứng gà và sơn màu sắc sặc sỡ với những ý nghĩa đẹp: Màu đỏ tượng trưng cho may mắn, màu xanh cho hy vọng, trẻ trung vô tội, màu vàng cho sự khôn ngoan, màu trắng cho thanh bạch, màu cam cho sức mạnh…, sau đó bỏ trứng trong giỏ với những thức ăn khác mang đến nhà thờ.
.
– Thỏ phục sinh (Osterhase/Easter bunny)
Các chuyện thần thoại hay trong dân gian đều có chuyện vui giúp đời như con thỏ là con vật hiền lành không làm hại sinh vật nào. Chú thỏ phục sinh xuất hiện từ năm 1678 do một giáo sư y khoa Von Georg Franck ở Franckenau dạy đại học Heidelberg công nhận thỏ là biểu tượng của sự sinh nở phong phú. Trứng phục sinh được sơn nhiều màu, người lớn đã cắt nghiã do các chú thỏ mang tới, từ đó có thỏ và trứng.

Một số sản phẩm quen thuộc sẽ bị ngộ độc nếu dùng quá liều

Một số sản phẩm quen thuộc sẽ bị ngộ độc nếu dùng quá liềuMột số sản phẩm quen thuộc sẽ bị ngộ độc nếu dùng quá liều

Vào năm 2013, sau khi nhận lời thách thức từ bạn bè, nam thanh niên 19 tuổi tại Virginia (Mỹ) đã uống 0,9 lít nước tương. Sau đó, anh đã rơi vào tình trạng hôn mê sâu vì nồng độ muối tăng cực mạnh trong cơ thể.

1. Nước tương

san pham, quá liều, ngộ độc,

Vào năm 2013, sau khi nhận lời thách thức từ bạn bè, nam thanh niên 19 tuổi tại Virginia (Mỹ) đã uống 0,9 lít nước tương. Sau đó, anh đã rơi vào tình trạng hôn mê sâu vì nồng độ muối tăng cực mạnh trong cơ thể.

Hypernatremia là một tình trạng khi nồng độ muối trong máu tăng quá cao. Khi mạch máu bị muối bão hòa, nó sẽ hút nước từ các bộ phận khác trên cơ thể và cả não bộ, nhằm giảm nồng độ muối. Khi mất nước, não bộ sẽ co lại và chảy máu.

 

 

Sau khi thanh niên này uống nước tương, cậu bắt đầu lên cơn co giật. Những người bạn đã lập tức đưa cậu tới bệnh viện. Nhưng khi tới nơi, cậu đã rơi vào trạng thái hôn mê. Các bác sĩ đã loại bỏ muối trong máu của cậu bằng cách sử dụng hỗn hợp nước và đường hóa học.

5 giờ sau, mức natri trong máu của anh đã trở lại bình thường, nhưng anh vẫn ở duy trì trong trạng thái hôn mê sau đó 3 ngày trước khi quay trở lại trạng thái bình thường. Các bác sĩ nói rằng người thanh niên này đã may mắn sống sót. Anh ta là người đầu tiên sử dùng muối quá liều nhưng vẫn sống sót mà không có bất kỳ vấn đề nào ảnh hưởng nào tới lâu dài tới thần kinh.

2. Trà

san pham, quá liều, ngộ độc,

Một người đàn ông ở Arkansas (Mỹ) đã mắc chứng suy thận do uống quá nhiều trà đá. Người đàn ông 56 tuổi này đã uống khoảng 16 cốc (cốc 240ml) trà đá mỗi ngày. Hồi tháng 5 năm 2014, người đàn ông này được đưa vào bệnh viện sau khi nhận ra cơ thể xuất hiện mắc các triệu chứng như buồn nôn, mệt mỏi và nhức mỏi cơ. Các bác sĩ đã phát hiện ra ông bị sỏi thận nghiêm trọng. Ngay lập tức, ông được các bác sĩ đưa đi chạy thận.

Nguyên nhân của triệu chứng suy thận của người đàn ông này là do một hóa chất tự nhiên có sẵn trong trà đen gọi là oxalat. Hóa chất này cũng chứa nhiều trong các thực phẩm khác như rau đại hoàng và cải bó xôi. Tiếp nhận quá nhiều oxalat cùng một lúc có thể dẫn đến suy thận.

Theo Trường Y tế Công cộng Harvard, lượng oxalate mà người đàn ông này tiêu thụ nhiều gấp 3-10 lần so với mức bình thường. Tiêu thụ 16 cốc trà như vậy mỗi ngày quả thực là quá nhiều.

3. Nhục đậu khấu

san pham, quá liều, ngộ độc,

Nhục đậu khấu có chứa một hợp chất tự nhiên gọi là myristicin có tác dụng gây ảo giác với liều lượng cao tương tự như triệu chứng của LSD – (Lysergic Acid Diethylamide) một hoạt chất ma túy kích thích thần kinh cực mạnh. Tiêu thụ từ 4,4 gam (2 muỗng cà phê) nhục đậu trở lên sẽ bị ngộ độc. Nhiều người ăn một lượng lớn nhục đậu khấu do họ tò mò về tính kích thích của loại gia vị này.

Trong suốt vài giờ sau khi tiêu thụ một lượng lớn hạt nhục đậu khấu, người dùng thường sẽ mắc các vấn đề về đường tiêu hóa. Sau vài giờ kế tiếp, cơ thể bắt đầu xuất hiện các vấn đề về tim mạch và thần kinh. Điều này đặc biệt nguy hiểm đối với bất cứ ai có vấn đề về tim mà chưa được chẩn đoán.

Ảo giác không xuất hiện ngay sau khi cơ thể hấp thụ các chất từ hạt/ bột nhục đậu khấu. Nên có rất nhiều trường hợp người dùng tiếp tục ăn thêm nhục đậu khấu do chưa đủ “phê”.

4. Kem đánh răng

san pham, quá liều, ngộ độc,

Sử dụng quá nhiều kem đánh răng có thể đem lại kết quả bi thảm không đáng có. Vào đầu những năm 1990, nhãn thuốc đánh răng có chứa các cảnh báo cơ bản cho biết, “Đừng nuốt. Chỉ sử dụng một lượng đậu hạt cỡ nhỏ cho trẻ em dưới sáu tuổi”.

Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho rằng fluoride là một chất có liên quan đến độc tính, và đòi hỏi đưa ra lời cảnh báo cho người tiêu dùng. Nuốt một lượng lớn kem đánh răng có chứa fluoride có thể gây tử vong.

 

Trẻ em dễ bị nhiễm độc fluoride do các cơ quan nội tạng của chúng nhỏ hơn nên dễ hấp thụ hơn. Một tuýp kem đánh răng cho trẻ bình thường có chứa đủ lượng fluoride để giết chết một em bé có trọng lượng dưới 30 kg. Nếu trẻ chỉ ăn 3% lượng kem cả tuýp, trẻ sẽ vẫn bị nhiễm độc fluoride cấp tính, với các triệu chứng giống cúm, chóng mặt và đau dạ dày.

5. Quả khế

san pham, quá liều, ngộ độc,

Khế có chứa một loại độc tố nghiêm trọng có khả năng phá hoại hệ thống thận. Những người thận khỏe thường có thể dễ dàng lọc bỏ độc tố. Khế đặc biệt nguy hiểm đối với những người không biết rằng họ đang ở giai đoạn sớm của chứng suy thận. Đối với những người sẵn mắc chứng thận yếu, suy thận hoặc thận hư, cần được khuyến cáo do tác động của chất này lên thận của họ sẽ rất rõ rệt khi mới chỉ ăn một lượng nhỏ.

Ngoài những người có vấn đề về thận, ăn quả khế hay uống nước ép quả khế khi đói sẽ làm gia tăng khả năng tiếp nhận độc tố của cơ thể. Các triệu chứng phổ biến nhất ở trường hợp nhiễm độc nhẹ là buồn nôn, suy nhược, mất ngủ, co giật và nấc.

6. Cá ngừ

san pham, quá liều, ngộ độc,

Tất cả phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ đều được khuyến cáo về việc sử dụng cá ngừ.

Cá ngừ dù tươi sống, chín hay đóng hộp đều chứa thủy ngân. Lượng thủy ngân được tìm thấy ở trong cá ngừ không nhiều nhưng nếu tiêu thụ cá ngừ với số lượng lớn, cơ thể sẽ tích tụ dần dẫn đến ngộ độc.

Các triệu chứng đầu tiên của ngộ độc là nhược cơ, tê ở đầu các ngón tay, chân sau đó là run chân tay và giảm thị lực. Chứng ngộ độc thủy ngân để lâu sẽ ảnh hưởng đến chức năng ghi nhớ của não bộ và suy giảm quá trình học tập. Các trường hợp nặng có thể dẫn đến các vấn đề về thận, suy hô hấp và nặng nhất là tử vong.

Nhiều người nhận thức được về nguy cơ ăn quá nhiều cá ngừ nhưng không biết về lượng “quá nhiều” thực tế là bao nhiêu. Một số loại cá ngừ, như cá ngừ vằn phổ biến, chứa hàm lượng thủy ngân cao hơn so với những giống cá ngừ khác. FDA Mỹ khuyến cáo rằng, với một người nặng 68 kilogram trở lên, nên dùng tối đa 170g cá ngừ vằn mỗi năm.

7. Kem giảm đau cơ

Loại kem này có thể giúp giảm bớt đau nhức nhưng sử dụng quá nhiều cũng có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe. Methyl salicylate là chất kháng viêm được tìm thấy trong các sản phẩm làm dịu đau cơ. Mặc dù kem giảm đau cơ được bôi trên da, chất này xâm nhập vào cơ thể xuyên qua các lỗ chân lông và xuyên qua các thớ cơ, dây thần kinh cũng như mạch máu.

Năm 2007, Arielle Newman – nữ vận đồng viên điền kinh từ New York (Mỹ), đã qua đời ở tuổi 17 do vô tình lạm dụng methyl salicylate. Ngôi sao điền kinh này thường xuyên sử dụng loại kem và cả miếng dán giảm đau cơ có chứa metyl salicylat. Việc sử dụng liên tục các sản phẩm dãn cơ quá liều của Newman theo thời gian đã khiến lượng salicyl metyl dần tích tụ trong cơ thể cô đến mức độ độc hại.

8. Cam thảo đen

san pham, quá liều, ngộ độc,

Hạt cam thảo đen có thể gây ngộ độc, đặc biệt đối với những người trên 40 tuổi. FDA Mỹ đã đưa ra một cảnh báo hồi đầu năm 2017 về những ảnh hưởng của việc tiêu thụ cam thảo đen thường xuyên hoặc với số lượng lớn. Cảnh báo từ FDA xuất hiện sau một vụ nhiễm độc diễn ra hồi 2016, một người thường tiêu thụ kẹo cam thảo đen mắc các vấn đề về tim mạch.

Ăn khoảng 57 gram cam thảo đen hàng ngày trong 2 tuần có thể gây ra vấn đề về tim mạch. Hạt cam thảo đen chứa glycyrrhizin, một hợp chất làm giảm lượng kali. Khi lượng kali giảm, người ta có nguy cơ bị nhịp tim bất thường, huyết áp cao, thậm chí là suy tim sung huyết.

Những người đang mắc vấn đề về tim mạch sử dụng cam thảo đen có nguy cơ bị ảnh hưởng cao hơn.

9. Các loại vitamin

san pham, quá liều, ngộ độc,

Ta cần vitamin để cải thiện sức khoẻ nhưng việc lạm dụng quá nhiều vitamin bổ sung có thể dễ mắc các vấn đề sức khỏe khác hay nặng hơn là dẫn tới ung thư.

Một số loại vitamin có khả năng hòa tan trong nước. Sự dư thừa của các vitamin tan trong nước sẽ bị đẩy ra khỏi cơ thể qua nước tiểu. Nhưng các vitamin khác, như vitamin A, hòa tan trong lipid. Những loại vitamin này được lưu trữ trong chất béo cơ thể và chúng không thể theo hệ bài tiết để thoát ra khỏi cơ thể. Các vitamin mà hòa tan lipid có thể làm tăng mức độ độc hại dẫn tới gây tổn thương gan,dị tật bẩm sinh, rối loạn hệ thần kinh trung ương và ung thư.

Năm 1985, một nhóm các bác sĩ bắt đầu một thử nghiệm mà những người tham gia đã dùng liều cao chấtbeta-carotene, một loại vitamin A bổ sung được cho là làm giảm nguy cơ bị ung thư. Cuộc thử nghiệm đã sớm bị hủy bỏ vì phác đồ cho thấy kết quả ngược lại đó là chúng gây ra ung thư ở một số người tham gia thay vì ngăn ngừa nó.

Cụ thể, những người hút thuốc nam đã dùng chất bổ sungbeta-caroten có nguy cơ phát triển ung thư phế quản nhiều hơn 18% so với những người không hút thuốc. Một nghiên cứu năm 2001 của Viện Ung thư Quốc gia Mỹ cũng cho kết quả tương tự.

Nghiên cứu đánh giá hiệu quả của vitamin E được sử dụng trong việc phòng tránh ung thư tuyến tiền liệt. Những phát hiện cho thấy những người đàn ông dùng bổ sung vitamin E thực sự có nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt cao hơn 17% so với những người không sử dụng.

Các vitamin tan trong nước như vitamin C thường được bài tiết ra khỏi cơ thể trước khi độc tính phát tác nhưng vẫn có thể ảnh hưởng tiêu cực lên cơ thể nếu sử dụng liều lượng cao. Quá liều vitaminC dẫn đến tiêu chảy, co thắt dạ dày và thậm chí là sỏi thận.

Tại Sao Kiêng Thịt Mà Không Kiêng Cá?

Tại Sao Kiêng Thịt Mà Không Kiêng Cá?

Tại Sao Kiêng Thịt Mà Không Kiêng Cá?
Luật Giáo hội buộc tín hữu phải ăn chay kiêng thịt. Nhưng mà tại sao phải kiêng thịt? Tại sao phải kiêng thịt mà không kiêng cá, kiêng trứng hay kiêng trái cây? Ăn thịt có gì xấu không?

Trước hết, nên lưu ý tới việc sử dụng từ ngữ. Tiếng “ăn chay kiêng thịt” gợi lên cho chúng ta hai điều: một điều cấm (kiêng) và một điều khuyến khích. Điều cấm là kiêng thịt; điều khuyến khích là ăn chay. Chắc chị đã biết rằng ở Việt Nam có vài tôn giáo đã hiểu như vậy: ăn chay có nghĩa là ăn đồ chay, những đồ lạt, không mặn. Còn đối với Kitô giáo, ăn chay có nghĩa là kiêng ăn.

a

Như thế, ngoài chuyện kiêng thịt lại còn thêm chuyện kiêng ăn nữa. Vì vậy nếu muốn diễn tả cho đúng tư tưởng thì thay vì nói “ăn chay kiêng thịt”, chúng ta phải nói “kiêng ăn kiêng thịt” hoặc là “chay ăn chay thịt”! Nếu đặt lại vấn đề như vậy thì câu hỏi “tại sao phải kiêng thịt” đã được giải quyết một phần rồi, nghĩa là chúng ta kiêng thịt không phải tại vì thịt nó xấu xa, cũng như chúng ta kiêng ăn không phải tại vì sự ăn uống xấu xa: sự ăn uống cần thiết cho sự sống; nếu ai tuyệt thực hoàn toàn thì sẽ sớm qua bên kia thế giới.

Chúng ta kiêng thịt không phải vì nó xấu; thế thì tại sao lại chỉ kiêng thịt mà không kiêng luôn cả cá nữa?

Vấn đề kiêng thịt không phải là cái gì riêng của Kitô giáo. Nó đã có một truyền thống lâu đời ở các tôn giáo trên thế giới, tuy với những lý do và động lực khác nhau. Chẳng hạn như các tín đồ Phật giáo kiêng thịt bởi vì họ tin vào thuyết luân hồi: khi giết các súc vật, biết đâu ta đã giết chính ông bà của mình bị phạt đầu thai làm kiếp súc vật. Dĩ nhiên, Kitô giáo đã đặt ra kỷ luật kiêng thịt không phải tại vì tin theo thuyết luân hồi nhưng dựa theo một động lực khác. Trong Cựu ước, ta đã thấy có những luật về kiêng thịt với những chi tiết khá phức tạp, thí dụ trong chương 11 của sách Lê vi, phân biệt những thú vật ô uế với vật tinh tuyền.

Tại sao lại có sự phân biệt giữa các thú vật tinh tuyền với thú vật ô uế?

Các nhà chú giải Kinh thánh không trả lời được. Có lẽ tác giả của sách Lêvi đã lấy lại một tập tục có từ xa xưa mà không còn ai nhớ rõ gốc gác. Cho dù lý do phân loại thế nào đi chăng nữa, đến khi bước sang Tân ước, ta thấy có những cuộc cách mạng quan trọng. Chúa Giêsu đã xóa bỏ sự phân biệt giữa các vật tinh tuyền và vật ô uế. Sự tinh tuyền và ô uế nằm ở trong lòng của mình chứ thú vật chẳng có tội tình chi cả (Mc 7,15). Tuy nhiên, xem ra các Kitô hữu tiên khởi (phần lớn gốc Do thái) không thể thay đổi não trạng nhanh chóng, thí dụ như ở chương 10 của sách Tông đồ công vụ, ta thấy thánh Phêrô còn sợ chưa dám ăn một vài thứ chim trời đã bị xếp vào hàng ô uế; lật qua chương 15 (câu 20 và 29) ta còn thấy thánh Giacôbê muốn đòi buộc các tín hữu tân tòng phải kiêng tránh vài thức ăn. Nhưng thánh Phaolô đi mạnh mẽ hơn, nhất là vì ngài để ý tới dân ngoại hơn là tới dân Do thái.

Thực vậy, thánh Phaolô chấp nhận hoàn toàn giáo lý của đức Kitô, theo đó chẳng có lương thực nào là ô uế hết. Nhưng có một vấn đề được đặt ra là có được ăn đồ cúng hay không? Trong thư gửi Rôma 14,14-16 thánh Phaolô đã phân biệt như thế này: tự nó, đồ cúng hay đồ không cúng chẳng có gì khác nhau, cho nên các tín hữu không phải kiêng cữ. Tuy nhiên, nếu có người non nớt bị vấp phạm vì việc người tín hữu ăn đồ cúng, thì mình phải tránh. Nói khác đi, mình kiêng ăn đồ cúng không phải tại vì nó là đồ ô uế nhưng mà mình phải tránh gây gương xấu cho người anh em mình; đây là một bổn phận thuộc giới răn bác ái yêu thương.

Như vậy, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta cứ tha hồ ăn uống, phải không?

Thánh Phaolô không bao giờ xúi các tín hữu ăn uống say sưa; trái lại, ngài đã hơn một lần khiển trách những người lấy cái bụng làm chúa. Thánh Phaolô chỉ muốn huấn luyện lương tâm của các tín hữu, hãy tìm hiểu cái lý do của các luật lệ, chứ không phải chỉ giữ luật lệ cách máy móc. Tất cả các lương thực đều tốt bởi vì do Chúa dựng nên cho con người. Chúng ta hãy hưởng dụng để ngợi khen Ngài. Việc ăn uống có thể trở thành cơ hội để chúc tụng tạ ơn Chúa như chúng ta đọc thấy ở thư gửi Rôma 14,6. Tuy nhiên, cần có chừng mực. Hơn thế nữa, thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu hãy tiến thêm một bước nữa, biết hy sinh cả những cái gì được phép làm: việc kiêng cữ những điều tốt nằm trong chương trình thao luyện tinh thần giống như các lực sĩ tập luyện ở thao trường (1Cr 9,27), nhất là để hoạ theo gương của đức Kitô chịu thụ nạn trên thập giá vì yêu thương chúng ta.

Nhưng nếu đã muốn kiêng khem lương thực thì kiêng hết các món, chứ sao lại chỉ kiêng thịt?

Như tôi đã nói ở đầu, trong Việt ngữ, vì đã quá quen với thành ngữ “ăn chay kiêng thịt” cho nên chúng ta chỉ giới hạn sự kiêng vào chuyện ăn thịt. Vấn đề kiêng cữ bao hàm việc kiềm chế hết những gì đem lại thỏa mãn thích thú, nhằm giúp cho ý chí chế ngự được bản năng. Theo một vài sử gia, trong những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội phải mệt với những phe khắc khổ hơn là với phe phóng túng. Phe khắc khổ đòi Giáo hội phải ra luật buộc tất cả các tín hữu phải giữ chay. Nhưng mà Giáo hội đâu có thể bắt hết mọi người phải trở thành nhà khổ tu được. Mặt khác, trong số các vị khổ tu thời đó, không thiếu những người chịu ảnh hưởng của thuyết ngộ giáo, coi xác thịt và hôn nhân là tội lỗi. Dù sao, việc khổ chế vào những thế kỷ đầu hoàn toàn mang tính cách tự nguyện.

Nếu có luật lệ thì cũng chỉ giới hạn cho từng địa phương chứ không bao trùm toàn thể Giáo hội. Việc kiêng khem tuyệt đối thường được dành cho ngày thứ 6 tuần thánh, rồi dần dần kéo dài ra các ngày thứ 6 hằng tuần. Nhưng mà dần dần kỷ luật kiêng khem tuyệt đối (chay ăn) được gia giảm bởi vì nhiều tín hữu phải làm việc lao động nặng nhọc, cần ăn uống để lấy sức. Mức độ châm chế được thay đổi tùy vùng tùy nơi. Bên Trung đông, người ta kiêng cả sữa, bơ, trứng; nhưng mà bên Tây phương, người ta chỉ đòi kiêng thịt. Từ thời Trung cổ, sự khổ chế tự nguyện biến thành khổ chế bắt buộc, nghĩa là trở thành luật buộc. Ngoài ra việc chay tịnh cũng là một hình phạt đền tội dành cho những hối nhân. Việc soạn thảo một bản văn pháp lý đòi hỏi phải xác định tỉ mỉ các chi tiết của nghĩa vụ.

Hậu quả là người ta trở lại với não trạng của các luật sĩ vào thời Chúa Giêsu, với đủ thứ vấn nạn được nêu lên: luật kiêng thịt buộc phải kiêng những thứ gì? Có phải kiêng mỡ heo, kiêng sữa bò, tiết canh hay không? Các giống động vật nào phải kiêng: máu nóng hay máu lạnh? thú vật trên bộ hay là dưới nước? Ngan, ngỗng, vịt, lươn, rùa, sò ốc nhái có phải kiêng không? Các chuyên gia về luân lý tha hồ mà nghiên cứu tranh luận về các loại thịt. Tiếc rằng người ta đã mất đi cái động lực của nó là tinh thần khổ chế lúc đầu. Vì thế có cảnh ngược đời là có người mong tới ngày thứ 6 để có dịp đi ăn ở nhà hàng thủy sản thập cẩm. Đối lại là cái cảnh chảy nước mắt của bao dân nghèo phải chi tiền nhiều hơn vào ngày thứ 6, khi mà cá mắc hơn thịt.

Giáo luật ngày nay vẫn giữ nguyên tình trạng như vậy chứ?

Bộ giáo luật hiện hành vẫn còn duy trì luật kiêng thịt, tuy nhiên với một tinh thần mới của công đồng Vaticanô II mà đức Phaolô VI đã muốn tiêm nhiễm với tông hiến Poenitemini (17/2/1966). Tinh thần đó có thể tóm lại 3 điểm sau: Tiên vàn là phải kiêng những gì xấu xa, tức là kiêng phạm tội; nói khác đi việc chay ăn chay thịt phải được lồng trong tinh thần thống hối cải hoán. Ngoài sự kiêng cái xấu, chúng ta hãy gắng tiến thêm một bước để kiêng cả cái tốt: sự kiêng cái tốt cũng nằm trong tinh thần đền tội và tu đức, để tập kiềm chế những đòi hỏi của bản năng dục vọng.

Dưới khía cạnh này, lãnh vực kiêng khem rất là rộng: từ kiêng ăn uống cho tới kiêng thuốc lá, tivi, các thứ tiêu khiển giải trí, các thứ tiêu pha hoang phí. Bước thứ ba nữa là ngoài tính cách tiêu cực (kiêng lánh) cần thêm tính cách tích cực: nhịn ăn nhịn mặc để lấy tiền giúp đỡ người nghèo, tỏ tình tương trợ với người thiếu ăn thiếu mặc. Đó là cái động lực của việc kiêng khem. Các Hội đồng Giám mục sẽ tùy theo hoàn cảnh của mỗi địa phương mà đề ra những hình thái cụ thể trong việc áp dụng luật ăn chay kiêng thịt chiếu theo đ.1251 và 1253 của bộ giáo luật.

Đức Phanxicô, 5 năm qua 30 tấm hình

Từ khi được bầu chọn năm 2013 sau khi Đức Bênêđictô XVI từ nhiệm, Đức Phanxicô đã tạo một sự chú ý đặc biệt nơi các thế hệ trẻ.

1. Hồng y Argentina Jorge Mario Bergoglio chào các ký giả khi rời lần họp cuối cùng để chuẩn bị cho mật nghị ở Vatican ngày 11.3, một ngày trước khi ngài là Giáo hoàng Phanxicô, kế vị Đức Bênêđictô XVI.

2. Từ ban-công Đền thờ Thánh Phêrô nhìn giáo dân đang tụ họp ở quảng trường Thánh Phêrô.

3. Đức Phanxicô gặp Đức Giáo hoàng danh dự ở Castel Gandolfo để ăn sáng ngày 23.3.2013.

4. Đức Phanxicô ôm một em bé trong lễ Phục Sinh đầu tiên ở quảng trường Thánh Phêrô.

5. Đức Phanxicô trong Ngày Thế giới Trẻ ở bãi biển Copacabana, Rio de Janeiro, Ba Tây.

6. Đức Phanxicô cầu nguyện trước bữa ăn với người trẻ ở Tòa giám mục Rio de Janeiro, ngày JMJ 26.7.2013.

7. Đức Phanxicô chụp hình với các bạn trẻ của giáo phận Ý ở Đền thờ Thánh Phêrô ngày 28.8.2013.

8. Chuyến thăm giáo xứ Bonaria, Cagliari nước Ý ngày 22.9.2013.

9. Đức Phanxicô hôn bàn thờ trong ngày Lễ Các Thánh ở nghĩa trang Verano, Rôma ngày 1.11.2013.

10. Ngày 3.4.2014, Đức Phanxicô tiếp quận công Philip và nữ hoàng Elizabeth, nước Anh.

11. Đức Phanxicô cầu nguyện trước Bức tường Than khóc ở Giêrusalem trong chuyến đi thăm Israel và Palestina năm 2014.

12. Ngày 30.6.2014, Đức Phanxicô tiếp vua Felipe VI và hoàng hậu Letizia ở Dinh Tông Tòa.

13. Đức Phanxicô một mình trước buổi tiếp kiến chung ở quảng trường Thánh Phêrô ngày 19.11.2014.

14. Đức Phanxicô tươi cười đến buổi tiếp kiến chung ngày 17.12.2014, trùng với ngày sinh nhật 78 tuổi của ngài.

15. Đức Phanxicô đến Phi Luật Tân ngày 16.1.2015. Trong chuyến đi này ngài đã đến thăm vùng bị trận cuồng phong Hải Yến tàn phá.

16. Đức Phanxicô cầu nguyện trước giờ Kinh Truyền Tin ở ban-công Đền thờ Thánh Phêrô ngày 26.1.2015.

17. Các nữ tu chung quanh Đức Phanxicô trong lần ngài đến nhà thờ chính tòa Napoli ngày 21.3.2015.

18. Tổng thống nước Bô-li-vi-a Evo Morales tặng Đức Phanxicô cây thập giá hình búa liềm trong một buổi tiếp tân ở La Paz, Bô-li-vi-a.

19. Đức Phanxicô cầu nguyện ở Đền thờ Thánh Phêrô ngày 1.9.2015, trong dịp này, ngài xin các linh mục tha tội cho các phụ nữ đã phá thai.

20. Đức Phanxicô thử mắt kiếng ở tiệm kính Alessandro Spiezia, đường Babuino, trung tâm Rôma ngày 3.9.2015.

21. Đức Phanxicô bắt tay chủ tịch Fidel Castro trong lần ngài gặp ông tại tư dinh của ông ở La Havana trong chuyến đi Cuba ngày 20.9.2015.

22. Sau khi gặp chủ tịch Castro, Đức Phanxicô gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama ở Tòa bạch Ốc, 23.9.2015.

23. Đức Phanxicô đọc bài diễn văn ở Quốc hội Mỹ, Washington ngày 24.9.2015.

24. Đức Phanxicô đến buổi họp về phát triển nhân bản ở Liên Hiệp Quốc ngày 25.9.2015.

25. Đức Phanxicô và một cận vệ Thụy Sĩ ngày 16.10.2015.

26. Đức Phanxicô ban phép lành “Urbi et Orbe” (cho thành phố và cho thế giới) ngày Chúa nhật 27.3.2016.

27. Đức Phanxicô chào giáo dân trong buổi tiếp kiến chung ở quảng trường Thánh Phêrô.

28. Đức Phanxicô giải tội cho một thanh niên ở quảng trường Thánh Phêrô nhân ngày Năm Thánh của giới trẻ, 23.4.2016.

29. Đức Phanxicô thăm trại tập trung Auschwitz ở Oswiecim, Ba Lan ngày 29.7.2016.

30. Đức Phanxicô cùng ăn với hàng trăm người nghèo trong Ngày Thế Giới chống nạn nghèo khổ ngày 19.11.2017.

Những hình ảnh về nhà thờ Đức Bà lúc mới xây

Ít ai biết rằng diện mạo của nhà thờ Đức Bà Sài Gòn lúc mới xây dựng khác khá nhiều so với ngày nay.

Nhà thờ Đức Bà trông khá “lạ” trong bức ảnh chụp năm 1882 này. Khánh thành ngày ngày 11/4/1880 nhân dịp Lễ Phục sinh, nhà thờ nổi tiếng này nguyên bản không có hai tháp chuông cao vút như ngày nay.

Nhà thờ Đức Bà ở Sàn Gòn trong tấm bưu thiếp năm 1888.

Diện mạo Nhà thờ Đức Bà khoảng năm 1890-1895 nhìn từ đường Catinat, nay là đường Đồng Khởi.

Năm 1895, nhà thờ được xây thêm hai tháp chuông ở mặt trước.

Mặt đứng của một trong hai tháp chuông nhà thờ Đức Bà (trái) và chi tiết phần trên cùng của tháp chuông này (phải).

Hình ảnh nhà thờ Đức Bà trên một bưu thiếp thời thuộc địa, sau khi hai tháp chuông đã hoàn thành. Diện mạo nhà thờ Đức Bà năm 1955.Năm 1964, nhà Thờ Đức Bà bị sét đánh gãy mất một cây thánh giá.

Năm 1965, cả hai tháp chuông được sửa chữa.

Nhà thờ Đức Bà nhìn từ mặt trước, khai tháp chuông đang được sửa chữa năm 1965.

Nhà thờ Đức Bà năm 1989.

Trước kia, ở mặt tiền nhà thờ Đức Bà còn có tượng đài Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh, khánh thành năm 1902. Khi Nhật đảo chính Pháp năm 1945 thì bức tượng bị hạ xuống và sau đó được đưa về Pháp. Ảnh tư liệu.

Vào năm 1959, tượng Đức Bà Hòa Bình được dựng trên vị trí tượng cũ và vẫn đứng đó cho đến ngày nay.

Nước mía Sài Thành xưa và nay

Nước mía là thứ nước giải khát ngon, bổ rẻ và được ép nguyên chất từ mía tươi. Ngày xưa mấy xe nước mía thường dùng tay để ép mía, bánh xe như vô lăng lái tàu, tay người ép mía phải khỏe mới ép được hết nước ra khỏi những cây mía dài.

Bây giờ hiện đại, các loại máy ép nước mía giờ toàn dùng điện. Khi ép mía người ta thường thêm tắc vào cho thơm và át bớt vị ngọt gắt cổ của thứ nước đường nguyên chất đó. Miếng tắc chua chua vào để hãm vị ngọt khó chịu đó lại và để … thơm hơn. Bản thân người biết uống nước mía thường có thói quen vắt nhiều tắc. Khoảng 2-3 trái /ly.

Càng chua càng ngon. Nhưng nước mía cũng phải ngọt ngon thì vắt nhiều tắc mới ngon. Gần đây nhiều nơi có món mía dâu, mía cam, vị chua của dâu hay cam xay chung với nước mía lạ miệng và phần nào làm dịu bớt cái gắt của mía đường. Nhưng gì cũng vậy, vị ngon nguyên thủy vẫn là thứ không thể thay thế được.

Nước mía ngon phải có màu vàng đậm, tung bọt. Vài nơi thường dằn thêm vài hạt muối cho đậm đà. Có nơi thêm nước chanh muối hay tắc muối. Mía ngọt nên uống phải có đá để làm mát dịu cái vị gắt của đường… Có lẽ ở miền Nam vì nóng quanh năm nên phổ biến hơn miền Bắc. Tuổi học trò đứa nào cũng phải biết nước mía. Thứ giải khát không đắt tiền và kén chọn khách hàng. Hồi xưa khi còn học cấp 1 chiều nào mẹ cũng mua cho một bịch nước mía chỉ 500 đồng, hút rột rột khi ra khỏi cổng. Ngon hơn nước ngọt nhiều. Ngon hơn cả mấy bịch xirô đá màu xanh đỏ bán nhan nhản ở trước trường.

Ở gần Sở thú lúc trước có nhiều xe nước mía lắm nhưng bây giờ người ta chuyển sang bán sâm bổ lượng nhiều rồi, chỉ còn vài xe thôi và cũng không ngon bằng hồi trước. Nước mía góc Cách mạng tháng Tám gần Bùi Thị Xuân cũng tạm được. Tối nào cũng đông nghẹt khách có bán kèm bò bía, cá viên. Tiếc nhất vẫn là khu nước mía đối diện nhà hát Bến Thành. Vừa ngon vừa thoáng mát. Họp mặt cũng tốt, ngồi lâu cũng không bị đuổi, chỉ tội cái không có nhiều bàn. Để ý xem, mấy khu chuyên bán phá lấu ở Sài Gòn, từ bờ kè cho đến ngõ nghách Lê Văn Sĩ, đến cả quận 5 khu Đại Thế Giới cũng có xe mía đi kèm. Nước mía ngon, rẻ, là lựa chọn của nhiều người khi đứng giữa loại trà đá bằng nước không tên và các loại nước có gas chẳng bổ béo gì.

Nước mía siêu sạch

Dạo này người ta bán rau sạch, gà sạch, phở sạch… rồi mía cũng phải sạch luôn. Mía bình thường 2000đ/ly, mía siêu sạch tới 7000đ/ly nhưng uống rồi mới thấy là nó hoàn toàn xứng đáng. Đầu tiên là cái ly đẹp đẹp nè! Còn sạch thì khỏi nói luôn, mấy cây mía tước vỏ sạch sẽ ướp lạnh trong tủ đàng hoàng. 3 khúc mía + 1 quả tắc thì ra 1 ly nước mía siêu sạch. Sạch lắm, uống không có bị lợn cợn bã như nước mía 2000đ đâu. Chua cũng vừa phải, không ngọt quá không chua quá. Còn vị thì khá là phong phú. Có 8 vị: Tắc, lựu, dâu, chanh dây, vani, đào, bạc hà và táo. Mấy bình xirô mùi đẹp, xịt vào ly đá rùi rót nước mía vào, lắc đều, cắm ống hút vào cái phập, chờ xíu cho đá tan ra, mát mát… hút cái vèo là hết ngay một ly. Nếu bụng không no thì thế nào cũng phải uống thêm ly nữa, lựa mùi khác cho đỡ thòm thèm…

Nhiều người chê mía sạch này đắt, nhưng mía sạch và mua được sự yên tâm vì nhiều xe mía lề đường kinh hãi đầy những ruồi là trung gian gây bệnh. Chưa kể việc nhiều nơi ngâm ủ mía trong thùng nước đầy những viên đường hóa học với độ ngọt rợn người vào những đợt mía “bệnh”, không ngọt nhiều như trông đợi.

Nước mía sầu riêng

Có một thứ phải kể đến là món nước mía sầu riêng, 2500 đồng/bịch. Rất ngọt và rất thơm. Thơm mùi sầu riêng, uống ực một cái vị sầu riêng trôi qua cổ lúc khát sướng vô cùng. Vì có sầu riêng nên đương nhiên là không dùng chung với tắc, vị ngọt tăng gấp đôi, gấp ba, không có chất chua kìm hãm lại càng ngọt. Vị béo được tăng cường bằng những vốc dừa nạo kẹp chung với mía cây khi ép. Có dừa, vị béo của sầu riêng được tăng cường tối đa. Cơm sầu riêng chắc được quết chung với ít đậu xanh để trong tô bự. Dùng muỗng quẹt thẳng vào ly đá (hay bao nilon đá) chan nước mía có dừa nạo lên. Lắc lắc rồi uống. Thơm, ngọt, béo, đã khát là tất cả những gì mà dân đi đường xa cảm nhận sau từng ngụm nước. Mọi người uống xong sẽ liên tưởng tới xe nước mía ở Cách mạng tháng Tám – Bùi Thị Xuân rồi sau đó tiếc rẻ tặc lưỡi: đúng là không ngon bằng mía sầu riêng Củ Chi…

Có dịp ngang qua Củ Chi, đoạn từ Tây Ninh về cách Sài Gòn khoảng 30 cây số nhớ thử một lần cho biết vị ngọt béo chết người của thức uống kể trên nhé! Thật ra thì mấy chỗ mía siêu sạch cũng có cái nước mía sầu riêng đấy nhưng sầu riêng ít lắm, chỉ đủ thoang thoảng mùi thôi, chẳng thể nào “sướng” bằng giữa một chặng đường xa thưởng thức một ly mía vàng đầy phủ phê thứ trái gai góc nồng nàn mùi hương nhớ lâu như ở Củ Chi được.

Ký ức hương vị bánh mì Sài Gòn xưa

Một trong những hình ảnh về nếp sống thị dân, được người Sài Gòn lưu giữ trong ký ức sâu đậm là hình ảnh cái bội cần xé đựng bánh mì Sài Gòn nóng, cột ở yên sau chiếc xe đạp của người bán rong khắp các phố, khắp các hẻm, suốt bốn mùa.

Bất kể chuyện nắng sớm mưa chiều, trong chúng ta làm sao quên được mỗi lần người bán mở cái miếng bao bố ra, hương thơm bánh mì kích thích sự thèm ăn, kích thích cảm giác yêu quí đời sống đô thị yên bình đúng không quý vị. Nói về cái bội cần xé làm bằng tre, phủ một lớp bao bố giữ hơi nóng của bánh mì mới ra lò là nói về phương thức bán lẻ bánh mì mang bản sắc Sài Gòn đậm nhất, khắp các bến xe, bến ghe, ga tàu lúc nào cũng đông người bán dạo bánh mì là một đặc trưng của người Sài Gòn.

Người Sài Gòn thời xưa, có thói quen như dân Tây, thích ăn bánh mì không.

Ăn bánh mì không là ăn không kèm món gì khác. Không gì bằng cầm ổ bánh mì nóng thơm phức, gỡ từng lớp da bánh dòn rụm hoặc xé ruột bánh mềm mịn ra mà ăn để từ từ cảm nhận nguyên vẹn, chân phương hương vị ngon lành của ổ bánh mì, mà ngày nay đã dần mất cái thói quen ăn bánh mì không. Có nhiều lý do để giải thích, nhưng một trong những lý do đó là bánh mì ngày xưa nướng bằng lò củi còn bánh mì ngày nay nướng bằng lò điện. Chắc chắn bánh mì lò củi ngon hơn hẳn vì nó được nướng theo kiểu chánh gốc của ông Tây bà Đầm ở tận xứ Tây.

Vì sao nhiều người miền Nam lại ưa ăn bánh mì? Không quá lời khi cho rằng người miền Nam do lưu truyền trong khẩu vị sự chân chất của người đi khai hoang mở cõi, nên món nào nguyên chất là ưng bụng khoái khẩu hơn là những món qua chế biến thêm thắt kiểu này kiểu nọ. Cứ món nướng là thích nên bánh mì nướng lò củi được thích nhất cũng là lẽ tự nhiên. Tôi có một ông chú, ông nói như vầy: “Ê, thứ bột, thứ bánh của Tây ăn mà mình thêm mắm muối thịt cá của người mình vô làm hư mất cái ngon rồi còn gì.” Có thể ngày nay đa phần người ta hết ưng miệng món bánh mì không, bánh mì ngọt vì sợ các chứng bệnh do chuyện ăn thừa tinh bột, hảo ngọt. Phổ biến hiện nay là ăn bánh mì với đủ thức các loại chất đạm khác như trứng ốp la, pâté, thịt nguội, xíu mại, heo quay, cá hộp, cà ri… do nhu cầu thỏa mãn dinh dưỡng và nhịp sống nhanh của thời công nghiệp.

Ngày trước, ai đi Sài Gòn hoặc từ Sài Gòn về quê mà quên mua vài ổ bánh mì làm quà thì trong bụng không yên. Với loại bánh mì không mà người nghèo, người giàu ai cũng thích, thích đến nỗi qua trạm kiểm soát công quyền cứ đưa vài ổ bánh mì ra là coi như chiếm được cảm tình. Với trẻ con ở quê thì khỏi nói, người lớn ở Sài Gòn cầm ổ bánh mì ngắt từng khúc, chia cho từng đứa thì coi như người lớn đó thiệt xứng danh dân Sài Gòn.

Một số nhỏ người Sài Gòn bây giờ vẫn còn thú ăn bánh mì không. Những chiếc xe đạp, xe gắn máy cà tàng chở bánh mì đằng sau thơm nức mùi bơ vẫn rong ruổi trên đường bán cho người lao động bình dân, người còn nhớ thương mùi bánh mới ra lò. Tiếng rao đa phần từ chiếc loa cũ giọng khàn khàn: Ai bánh mì nóng đê…

Ai từng đứng xếp hàng chờ bánh mì nướng củi ra lò mới thấm được cái hạnh phúc làm người đô thị. Ánh lửa rực sáng từ miệng lò bánh, tiếng lửa nổ tí tách như tiếng pháo chuột, thợ nướng bánh gương mặt hồng ánh lửa, từng vỉ bánh chín vàng rực được lấy ra như ánh bình minh vừa nhú khỏi các nóc nhà. Không hề quá đáng khi nói rằng, không gian quanh các lò bánh mì đã làm nên một Sài Gòn riêng, một cõi thơm ngào ngạt hương bánh chín.

Bánh mì của Việt Nam hiện nay là loại bánh mì cứng, được du nhập từ thời thực dân Tây. Trong các tỉnh thành, bánh mì được xứ Sài Gòn nướng là nhất. Đến tận ngày nay, hễ nói tới bánh mì là người ta kèm thêm hai chữ Sài Gòn mà đưa vô, lãng quên chuyện bánh mì của Tây.

Nhắc về cái thú ăn bánh mì không của người Sài Gòn là để nhằm tôn vinh một thứ bánh và một cách ăn có từ lúc người Việt nướng ổ bánh mì đầu tiên. Văn hóa và văn hóa ẩm thực là một tiến trình du nhập và tinh lọc. Bánh mì ngày nay trở thành món bánh phổ biến nhất của người Việt và được kiều bào đưa ra thế giới, hiển nhiên, bánh mì Việt đã có căn cước Việt và danh tiếng món ngon Việt Nam.

Giọng nói người Sài Gòn

Giọng nói người Sài Gòn

Giọng nói người Sài Gòn không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào của sông nước Nam Bộ, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương.

Ai sống ở Sài Gòn này mà có thể quên tiếng rao vặt của những cô gánh hàng rong .. Ảnh sưu tầm từ internet

Có dạo đọc trong một bài viết về Sài Gòn – Gia Định của nhà văn Sơn Nam, có thấy ông viết giọng Sài Gòn, cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách Hoa, những người miền Trung đầu tiên đến đất Gia Định…Từ đó hình thành một loại ngôn ngữ vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…

Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không pha trộn, không bị cải biến đi qua thời gian. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói đến chất giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”.

Cái “điêu luyện” ấy như thuộc về bản chất của người Hà Nội mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” mà thôi, họa chăng chỉ có giọng Huế của người con gái Huế trầm tư mới cùng được ví von thế…

Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Không ngọt ngào …mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt, giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn.

Ảnh sưu tầm từ internet

Đó là chất giọng “thành thị” đầy kiêu hãnh của người Sài Gòn, chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Dường như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống, trong đổi mới và phát triển, thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở nên “cao sang” hơn. Dù vậy, có cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.

Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang sang sảng riêng…Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu…

Người miền khác có khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dìa nghen!” – Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!” “thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…

Giọng người Sài Gòn đôi khi diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “Dzui dzữ hen!”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ “Dzui dzữ hen!”…

Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như “Hay dzữuuu”, “Giỏi dzữưưu…!” Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen” “Thôi à!” khá nhiều, như một thói quen và cái “duyên” trong giọng Sài Gòn.

Người Sài Gòn nói chuyện, không phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy. Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng Sài Gòn. Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy!” thì người Sài Gòn nói nó… thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen!”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng miệng làm sao đó.

Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ “dạ” khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ “vâng”. Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ “vâng”. Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói “vâng!” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ “dạ” vào mỗi câu nói. “Mày ăn cơm chưa con ? – Dạ, chưa!”; “Mới dìa/dzề hả nhóc? – Dạ, con mới!”… Cái tiếng “dạ” đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó “thương” lạ…dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng “dạ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳn hay.

Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”, còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “dạo này”…người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó [” nghĩa là khen cô bé đó lắm vậy.)

Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà.

Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem…”Nhỏ đó [ lắm!”, “Nhỏ đó ngoan!”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.

Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề…nhìn phát bực!” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe!” hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn.

Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho” ở đây là mua đó nghen. Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi!” “Ngon làm thử coi!” “Cho miếng coi!” “Nói nghe coi!”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè ?

Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà. Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” – Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông ta?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.

Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!”

Ý nghĩa các loại Dầu Thánh

Hằng năm, vào sáng Thứ Ba Tuần Thánh, chúng ta thường thấy rất đông giáo dân, tu sĩ nam nữ và các linh mục của giáo phận đến tham dự thánh lễ Truyền Dầu.

Sự hiện diện đông đảo của các linh mục giáo phận chung quanh giám mục của mình vừa nêu rõ tư cách và trách nhiệm chủ chăn của giám mục trong một Giáo Hội địa phương, vừa biểu lộ sự hiệp thông của linh mục đòan với giám mục và giữa các anh em linh mục với nhau. Trong thánh lễ này, các linh mục sẽ cùng lặp lại lời hứa khi chịu thánh chức trước mặt giám mục về trách nhiệm phục vụ cộng đòan, về việc từ bỏ bản thân để nên giống Chúa Kitô và về tư cách của người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Cũng trong thánh lễ này, đức giám mục sẽ thánh hiến Dầu Thánh, dầu này được dùng trong bí tích Thánh Tẩy, bí tích Thêm Sức, bí tích Truyền Chức Thánh và thánh hiến bàn thờ. Ngòai ra, đức giám mục còn làm phép dầu Dự Tòng và dầu Bệnh Nhân. Nhân dịp này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của việc sử dụng các lọai dầu được dùng trong nghi thức phụng vụ của Giáo Hội.

Trong Phụng vụ Cựu Ước, dầu là một thành phần thuộc của lễ đầu mùa dâng lên Thiên Chúa . Sách Dân Số chương 18 câu 12 có ghi : “Tất cả tinh dầu hảo hạng, mọi thứ rượu mới và lúa miến tốt nhất, tức là những của đầu mùa người ta dâng lên Đức Chúa…”(Ds 18,12). Khi ông Maisen hòan thành việc dựng Nhà Tạm, trong ngày bàn thờ được xức dầu , thủ lãnh các chi tộc lần lượt dâng các lễ phẩm lên Thiên Chúa. Trong số tất cả các lễ phẩm đó, luôn có bột và dầu. Đền thờ Giêrusalem có cả một nơi để dự trữ dầu và các Thầy Lêvi là những người có trọng trách canh chừng và lo việc trích dầu để phục vụ trong đền thờ.

Số dầu này trước tiên được dùng để thắp sáng trong đền thờ như lời Chúa truyền cho Maisen như đã được ghi trong sách Xuất Hành chương 27 câu 20 : “Phần ngươi, ngươi sẽ truyền cho con cái Israel, phải giã Oliu lấy dầu nguyên chất để thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy…”(Xh 27,20-21). Ngòai việc thắp sáng, dầu còn được dùng trong nghi thức thanh tẩy và thánh hiến. Chẳng hạn, trong nghi thức thanh tẩy người mắc bệnh phong sau khi đã được sạch, sách Lêvi chương 14 ghi rõ : “Tư tế sẽ bắt một con chiên, tiến dâng làm lễ đền tội cùng với nửa lít dầu…Tư tế sẽ đổ một ít dầu vào lòng bàn tay trái, nhúng một ngón tay phải vào dầu và rảy dầu bảy lần trước nhan Đức Chúa…”. Trong việc thánh hiến, dầu được đổ trên đối tượng được thánh hiến. Đối tượng đó có thể là người và cả những đồ vật được thánh hiến dâng cho Thiên Chúa. Sách Lêvi chương 8 câu 10 đến 12 ghi rằng : “Ông Maisen lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm cùng mọi vật ở trong, và thánh hiến tất cả; ông lấy dầu rảy trên bàn thờ 7 lần, rồi xức dầu bàn thờ cùng mọi đồ phụ thuộc, vạc và đế vạc, để thánh hiến những vật đó. Ông đổ dầu tấn phong lên đầu ông Aharon và xức dầu để thánh hiến ông”.

Trong Tân Ước
, dầu được dùng trong một số các bí tích, chẳng hạn :

Trong Bí Tích Thánh Tẩy. Sách Giáo Lý Công Giáo số 1213 dạy rằng : “BT Thánh Tẩy chính là nền tảng của tòan bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi Bí Tích khác. Nhờ BT Thánh Tẩy, chúng ta được giải thóat khỏi tội lỗi, được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, được trở thành chi thể của Đức Kitô, được tháp nhập vào Hội Thánh và được thông dự vào sứ mạng của Hội Thánh”. Vua thánh Louis nước Pháp, mỗi khi có một hòang tử được rửa tội, ngài vui mừng ôm con vào lòng và nói : “Con yêu dấu, trước khi lãnh nhận BT Rửa tội, con chỉ là con của ta, nhưng giờ đây, con đã trở nên con của Thiên Chúa. Chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời”[1]Vì là bí tích rất quan trọng và chỉ lãnh nhận được một lần trong đời nên Giáo Hội muốn rằng các Dự Tòng, trước khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, cần được xức “Dầu Dự Tòng” và cần được chuẩn bị cách kỹ lưỡng bằng thời gian dự tòng. Thời gian này giúp cho các Dự Tòng học hỏi, tìm hiểu đầy đủ về Phúc Âm, về Đức Kitô, về Giáo Hội, về các bí tích, bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, các dự tòng này đồng thời cũng sẽ lãnh nhận thêm một số các bí tích khác như bí tích Thánh Thể, Thêm Sức, Hôn Phối…nhờ đó, giúp họ hiểu rõ hơn và thực sự ước muốn lãnh nhận BT Thánh Tẩy.

Trong bí tích Thêm Sức, người lãnh nhận bí tích này được dự phần vào mầu nhiệm hiện xuống. Mầu nhiệm này tiếp nối các mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh. Trong BTTS, Chúa Thánh Thần nối kết tín hữu với Đầu là Đức Kitô bằng một giao ước mới, giúp họ trưởng thành trong đức tin và giúp họ can đảm trở thành chứng nhân của Đức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày.

Sách Giáo Lý Công Giáo số 1296 khẳng định rằng trong BTTS, chúng ta được Thánh Thần ghi dấu. Nhờ việc xức dầu thánh, ấn tín của Chúa Thánh Thần xác nhận người lãnh nhận BTTS hòan tòan thuộc về Đức Kitô, để vĩnh viễn dấn thân phục vụ và làm chứng cho Đức Kitô, đồng thời là dấu chỉ của Lời Thiên Chúa hứa sẽ bảo vệ người ấy trong cuộc thử thách lớn lao thời cánh chung. Thánh Athanasiô cũng nói rằng : “Việc xức dầu chứa đựng hương thơm và mùi dịu của Đấng Xức Dầu, và người được xức dầu được chia sẻ vào hương thơm đó, để họ có thể nói như thánh Phaolô : chúng tôi là hương thơm của Đức Kitô (2Cr2,15).

Nhờ BTTS, Chúa Thánh Thần giúp Kitô hữu tăng trưởng trong Đức Kitô. Nếu trong BT Thánh tẩy, Chúa Thánh Thần tái tạo lại nơi con người hình ảnh của Thiên Chúa đã bị tội lỗi làm biến dạng, thì trong BTTS, Chúa Thánh Thần ban cho con người chính bản thể thần linh và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần các Kitô hữu có khả năng sống thánh thiện và thực hiện các việc đạo đức, tốt lành, nhờ 7 Ơn của Chúa Thánh Thần ban

Trong BTXDBN, việc xức dầu trước tiên được dùng như phương dược chữa lành các bệnh tật. Ngay từ thời xa xưa, người ta thường trộn dầu với rượu tạo thành một thứ thuốc thông dụng và luôn mang theo mình khi đi đường xa. Trong dụ ngôn người Samari tốt bụng, chúng ta thấy người lữ khách này đã cẩn thận mang theo mình chất dầu quý báu này : “Ông ta lại gần người bị nạn, lấy dầu và rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10,34). Chính Đức Giêsu, khi sai các môn đệ đi rao giảng, cũng đã nhắc nhở họ phải mang dầu theo : “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6,12-13). Khi ban BTXDBN, các linh mục luôn đọc rõ ràng công thức sau đây : “Nhờ việc Xức Dầu này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh Thần mà giúp đỡ con, để người giải thóat con khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa con và thương làm cho con thuyên giảm”.

Tuy nhiên qua BTXDBN, Đức Giêsu đã nâng việc xức dầu chữa bệnh đó lên hàng Bí Tích để trở thành phương tiện thiêng liêng chữa lành các bệnh tật phần linh hồn và giúp ta lãnh nhân ơn cứu độ. BTXDBN nâng đỡ, củng cố, khích lệ bệnh nhân tin tưởng và phó thác mọi sự cho Chúa, giúp họ sẵn lòng chịu đựng những đau đớn mệt nhọc trong bệnh tật và giúp họ can đảm chống lại những cám dỗ của ma quỷ. Giáo Hội  dạy rằng lúc thuận tiện nhất để lãnh nhận BTXDBN không phải là lúc bệnh nhân hấp hối, nhưng chính là lúc tín hữu bắt đầu ở trong tình trạng nguy tử vì bệnh tật, vì già yếu hoặc phải giải phẫu vì những cơn bệnh hiểm nghèo.

BTXDBN ngòai việc chữa bệnh phần xác, thanh tẩy linh hồn, còn giúp cho các Kitô hữu ý thức và quan tâm đến việc dọn mình chết lành, bởi lẽ đã là con người, có sinh thì phải có tử. Nhờ BTXDBN các Kitô hữu ý thức rằng, chết chính là lúc hòan tất cuộc đời mình, là lúc khép lại các trang sử của một đời tự do. Hiểu như thế,đứng trước cái chết, người ta không thể coi thường và chỉ chuẩn bị trong vài phút hay vài ngày cuối đời. Đối với các Kitô hữu, chuẩn bị chết phải là công trình của cả một đời người. Công trình này khởi đầu với bí tích Thánh Tẩy, trong đó các Kitô hữu được chết, được mai táng và sống lại với Đức Kitô. Chết ở đây vốn là thông phần vào cái chết của Đức Kitô, là chết đối với tội lỗi và bởi vì cái chết thể lý là một hình phạt do tội gây ra, nên chết đối với tội lỗi đã là một cách chuẩn bị và lướt thắng cái chết thể lý rồi vậy. Đối với các Kitô hữu, cuộc hành trình từ tử đến sinh nầy cũng được các bí tích khác trợ giúp, trong đó bí tích Thánh Thể là tuyệt đỉnh, vì mỗi bí tích đều giúp cho các Kitô hữu gắn bó với Đức Kitô, trong đau khổ và trong cả cái chết. Do đó, Giáo Hội quan tâm đến việc khuyến khích các linh mục năng thăm viếng những người lớn tuổi và kẻ bệnh tật, yếu đau. Thúc giục mọi người giúp đỡ cho những bệnh nhân được cơ may thường xuyên lãnh nhận Thánh Thể và cho những ai có nguy cơ tử vong, sớm được lãnh nhận bí tích Xức Dầu và lãnh nhận của ăn đàng.

Trong BT Truyền Chức Thánh. Việc đặt tay và xức dầu thánh hiến đã làm cho con người linh mục trở thành người “được chọn trong số người phàm và được đặt lên làm đại diện cho lòai người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính vị ấy cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên vị ấy khi phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho mình như vậy” (Dt 5,1-3). Trong buổi nói chuyện với các Hồng Y, Giám mục và Linh mục tham dự hội nghị chuyên đề, đánh dấu 30 năm Sắc Lệnh Về Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục (Presbyterorum Ordinis), vào ngày Thứ Sáu 27/10/1995, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng chính việc đặt tay và việc xức dầu thánh hiến đã làm nên căn tính linh mục, đó là người được chọn giữa những người khác và được đặt làm đại diện cho những người khác trước mặt Thiên Chúa. Để sống và thể hiện đúng căn tính và ơn gọi của mình, linh mục phải cố gắng sống và trở thành con người của Thiên Chúa thực sự, linh mục phải là con người thực sự quan tâm và yêu thương Giáo Hội như hiền thê của mình, linh mục phải là chứng nhân cho Thiên Chúa Tòan Năng và cho những thực tại vô hình; linh mục phải là con người cầu nguyện và là thầy dạy, là người dẫn đường và là người bạn đích thực của mọi người. Đứng trước một linh mục như thế, các tín hữu dễ dàng quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi hơn, dễ ý thức và có ấn tượng tốt hơn đối với việc xức dầu của Thánh Thần trên bàn tay và trái tim linh mục qua BTTCT.

Những điều chúng ta vừa cùng nhau tìm hiểu trên đây, giúp chúng ta càng xác tín hơn rằng dầu được thánh hiến cũng như được làm phép trong thánh lễ Truyền Dầu vào sáng Thứ Năm Tuần Thánh, được dùng trong phụng vụ Kitô giáo có tác dụng rất đặc biệt đến đời sống đức tin của các Kitô hữu, từ lúc mới được sinh ra cho đến lúc chết. Việc tìm hiểu trên đây sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về những lợi ích khi lãnh nhận các bí tích, giúp chúng ta chuẩn bị cẩn thận hơn và cầu nguyện cách đặc biệt hơn cho các dự tòng, các tân tòng, cho những ai sắp lãnh nhận bí tíchThêm Sức, cho những ứng viên muốn dấn thân cách quảng đại trong sứ vụ linh mục và cho những ai đang trong hòan cảnh nguy tử do bệnh tật hoặc già yếu. Xin cho các ơn lành được ban xuống dồi dào qua việc xức dầu nơi các bí tích, giúp cho đời sống Kitô hữu của mỗi người chúng ta mỗi ngày một phát triển hơn lên, được trưởng thành và sống xứng đáng với ơn gọi và sứ vụ của mỗi người hơn.  Amen.