Home Blog Page 484

Mẫu gương tuyệt vời cho các bà mẹ Công Giáo

Theo quan niệm văn hóa của người Á Đông, vai trò người phụ nữ luôn bị giảm nhẹ. Từ quan lối nhìn trên, người phụ nữ đôi khi bị coi thường. Chính vì vậy, bản thân người phụ nữ cũng trở nên tự ty, co cụm lại trong những công việc lặt vặt như nội chợ, cơm núc…  Nói chung là lo những chuyện lặt vặt trong nhà.

 

Tuy nhiên, hôm nay, phụng vụ mừng kính một vị thánh nữ là vợ, là mẹ trong gia đình. Ngài được biết đến bằng những chuyện bình thường nhưng đã thi hành cách phi thường.

 

Mang trong mình phận gái:“liễu yếu đào tơ”, nhưng cuộc đời và lối sống ngang qua những hành động, hẳn ngài thật giống một: “đấng nam nhi” hay “bậc anh hùng hảo hán”.

 

Con người đó là ai? Thưa! Ngài chính là thánh nữ Mônica, mẹ của thánh giám mục Augustinô.

Mừng lễ thánh Mônica, chúng ta cùng nhau tìm hiểu cuộc đời của thánh nhân, để ngang qua đó, như một bài học cho đời sống đức tin của chúng ta.

 

  1. Thân thế cuộc đời thánh Mônica

 

Gia đình của thánh nữ Mônica không có gì nổi nang trong làng. Cha mẹ ngài là những người bình dân nhưng đạo hạnh, hay thương người. Thánh nữ sinh năm 332, tại làng Sucara bên Phi Châu.

 

Ngay từ nhỏ, Mônica đã được hấp thụ truyền thống đạo đức và một nền giáo dục có thể nói là“linh đạo tình yêu”. Những đặc tính như: nhân từ, hiền hậu, thương người là nét đẹp nơi gia đình của thánh nhân mà ngài được thừa hưởng.

 

Quả thật, tấm lòng quảng đại, yêu thương người nghèo dường như đã thường trực trong tâm hồn cô, khiến cô không thể ngồi yên trong khi nhiều người chung quanh mình phải đói khát! Vì thế, mỗi bữa cơm Mônica thường dành ra một phần cho kẻ khó nghèo. Việc chia sẻ này đã làm cho Mônica coi là niềm hạnh phúc của mình vì được diễm phúc đụng chạm, gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa ngang qua những người kém may mắn đó.

 

Một điểm đáng lưu ý khác nữa là: Mônica thường xuyên ẩn mình nơi vắng vẻ để thân mật, cầu nguyện với Chúa lâu giờ.

 

Tuy nhiên, tưởng chừng một con người đạo hạnh như Mônica, ắt phải được tận hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc! Ai ngờ cô lại gặp phải cảnh éo le và truân chuyên quá đỗi!

Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, Mônica đã kết hôn với Patricius. Chồng cô thuộc dòng dõi quý tộc. Vì thuộc về thành phần giàu sang trong làng, nên ngay từ khi còn nhỏ, chàng Patricius đã được nuông chiều thái quá, dẫn đến tình trạng ngang tàng, hách dịch, nghiện rượu, độc ác và tàn nhẫn và không chung thủy… Ông luôn tỏ vẻ khó chịu mỗi khi thấy vợ làm từ thiện và cầu nguyện.

Hơn nữa, sẵn có lợi thế con nhà giàu, lại hơn tuổi của Mônica quá nhiều, nên Patricius thường xuyên thể hiện vai trò chủ – tôi đối với cô. Mặt khác, cô lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho cô Mônica buồn nhất, đó là bà lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do cho Patricius. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ.

Thêm vào đó, sau khi sinh được Augustinô, người con trai đầu lòng, bà vui mừng, phấn khởi khôn xiết. Nhưng chẳng bao lâu, Augustinô buông theo lối sống của cha, nên cung cách và lối sống của con trai chính là bản sao của chồng.

Tuy nhiên, khi gặp những nghịch cảnh ngập đầu, Mônica không hề oán trách, nhưng ngài đã tìm ra những liều thuốc giải độc tốt nhất cho linh hồn mẹ chồng, chồng và các con. Liều thuốc đó là sự hy sinh, lời cầu nguyện liên lỷ, cộng thêm những đức tính tuyệt vời như  lòng bác ái, tình yêu thương, tinh thần quả cảm, đức tính khiêm nhường và niềm tin vào Chúa.

Vì vậy, mưa dầm thấm lâu. Thiên Chúa đã thưởng công Mônica bằng việc hoán cải mẹ chồng. Patricius chồng cô đã xin Rửa Tội và tin theo Chúa. Augustinô quyết định chia tay bè rối Manichê(Nhị Nguyên) là một tà thuyết chống lại Giáo Hội và đức tin Công Giáo mà ông đã dồn toàn tâm toàn trí trong suốt chín năm trường, sau đó ngài được Rửa Tội. Hai người con còn lại là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập Giáo Hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.

Đây là ân huệ lớn lao do lòng thương xót của Người đã dành cho Mônica. Niềm vui tột cùng đó đã làm cho Mônica thốt lên với Augustinô trong những giây phút cuối đời: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui hơn được nữa… Vì mọi hy vọng … mẹ đã được mãn nguyện”.

Cuối năm 387, khi hai mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi Châu, thì Thiên Chúa đã gọi Mônica về với Người, hưởng thọ 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.

 

  1. Gương sáng của thánh nhân

 

Cuộc đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những chuyện bình thường cách phi thường”. Tại sao vậy?

 

Trước tiên là chu toàn bổn phận trong lòng mến và sự trung thành. Đây là nhân đức anh hùng.
Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng, tận tụy và trung thủy với chồng. Làm mẹ, ngài hết mực yêu thương, hy sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Như Đức Giêsu, yêu và yêu đến cùng, nên không bao giờ muốn con của mình rơi vào tình trạng bất hảo và xa rời Giáo Hội. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.

 

Thứ đến là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn khi gặp chuyện chẳng lành.

 

Thứ ba, là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong niềm tin và kết hợp với Chúa cách liên lỷ trong tâm tình phó thác tuyệt đối, để mọi sự qua đi mà không bị rơi vào quên lãng, nhưng luôn được tác phúc vì lòng mến nơi thánh nhân.

Như vậy, cả cuộc đời của thánh Mônica đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời cho những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người.

3. Bài học cho chúng ta

 

Mỗi khi mừng lễ thánh Mônica, chúng ta hãy học nơi ngài những gương sáng để xây dựng hạnh phúc gia đình ngày càng tốt đẹp.

 

Bài học thứ nhất:

 

Chu toàn bổn phận hằng ngày trong lòng mến. Làm những việc tầm thường cách phi thường trong sự kết hợp với Chúa và phó thác cho Người.

 

Bài học thứ hai:

 

Biết dùng gương sáng như công cụ số một để cảm hóa người khác, nhất là những người ngang tàng, mất nết…

 

Bài học thứ ba:

 

Cần xác định thật rõ:“Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Làm mọi việc trong tâm tình tín thác nơi Chúa Quan Phòng. Đón nhận tất cả, miễn sao điều đó đẹp lòng Chúa và ích lợi cho ơn cứu độ của mọi người.

 

Bài học thứ tư:

 

Đó là sự kiên trì, trung thành. Đời sống đức tin của chúng ta cần có những nhân đức này. Nếu không kiên trì, chúng ta dễ bỏ cuộc. Không kiên trì khó có thể trung thành. Giữa một xã hội đầy thử thách, tình trạng chối bỏ sự sống ngày càng lan tràn. Sự chung thủy đang là một điều gì đó khó hiểu đối với nhiều gia đình. Giáo dục con cái trở nên đầy thách đố. Những lúc như thế, chúng ta cần kiên trì và trung thành cũng như phó thác.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin nhận lời thánh nữ Mônica chuyển cầu mà ban cho chúng con, nhất là những người vợ, người mẹ trong các gia đình, luôn biết nêu gương sáng trong sự thánh thiện, hiền lành, yêu thương và nhẫn nhục, kiên trì và trung thành, tin tưởng và phó thác nơi Chúa như thánh Mônica khi xưa. Amen.

CUỘC GẶP GỠ

Chủ đề: “Điều quan trọng trong đời không phải những gì chúng ta kiếm được,
nhưng con người mà chúng ta trở thành”

Nhiều năm trước đây, một nhà hàng ăn ở Chicago có tấm trải bàn độc đáo trên mỗi bàn ăn. Và nếu bạn muốn, người hầu bàn sẽ vui vẻ tặng bạn tấm trải bàn này để đem về nhà, đóng khung và treo trên tường.

Trên tấm trải bàn ấy có ghi lại một câu chuyện như sau:

“Vào năm 1923, một cuộc họp quan trọng đã xảy ra tại khách sạn Edwater Beach ở Chicago. Tham dự cuộc họp này là các nhân vật sau đây:

“Chủ tịch công ty sắt thép lớn nhất, chủ tịch công ty sản xuất đồ tiêu dùng lớn nhất, chủ tịch công ty dầu khí lớn nhất, chủ tịch thị trường trao đổi chứng khoán Nữu Ước, chủ tịch Ngân Hàng Tài Sản Quốc Tế, người dự trữ lúa mạch lớn nhất, người có nhiều chứng khoán nhất ở Wall Street, người đại tư bản độc quyền lớn nhất thế giới, và một bộ trưởng của chính phủ Harding.”

Thật là một danh sách của những người nổi tiếng. Tuy nhiên, 25 năm sau, chín nhà đại tư bản này đã ra sao?

Theo câu chuyện được in trên tấm trải bàn, chủ tịch công ty sắt thép lớn nhất là Charles Schwab đã từ trần trong sự phá sản; chủ tịch công ty sản xuất đồ tiêu dùng lớn nhất là Samuel Insull khi chết không có một đồng xu dính túi; chủ tịch công ty dầu khí lớn nhất là Howard Hobson trở nên điên dại; chủ tịch thị trường chứng khoán Nữu Ước là Richard Whitney vừa mới ra khỏi tù; chủ tịch ngân hàng là Leon Fraser thì tự tử; người dự trữ lúa mạch lớn nhất là Arthur Cutten chết trong sự nghèo nàn; người có nhiều chứng khoán nhất ở Wall Street là Jesse Livermore thì tự tử; người đại tư bản độc quyền lớn nhất thế giới là Ivar Kruegar cũng tự tử; và ông bộ trưởng của chính phủ Harding là Abert Fall vừa mới được ân xá mãn hạn tù để có thể về chết ở nhà!

Câu chuyện này nhấn mạnh đến vài điểm đằng sau bài Phúc Âm hôm nay. Và đó là điểm gì? Điểm đó được tóm lược trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người phú hộ dại khờ.

Trái với ý nghĩ của nhiều người, trong dụ ngôn này Chúa Giêsu không đả phá việc tìm kiếm của cải. Người không đả phá các công ty.

Điều Chúa Giêsu đả phá là ý tưởng điên rồ của một số người khi coi tài sản vật chất quan trọng hơn tài sản tinh thần.

Một vài năm trước đây, một nhà truyền giáo ở Phi Châu cho biết người dân ở đây có thói quen mai táng người chết mà cởi bỏ hết y phục.

Một trong những mục đích của thói quen này là để nhấn mạnh đến sự kiện: chúng ta từ bỏ thế giới này cũng y như khi chúng ta đi vào thế giới ấy.

Đó cũng chính là điểm Thánh Phaolô viết trong Thư I gửi cho Timôtê, “Cái gì chúng ta đem vào thế giới này? Chẳng có gì. Cái gì chúng ta đem ra khỏi thế giới này? Cũng chẳng có gì!” 1 Tim. 6:7

Và đây cũng là điểm mà Chúa Giêsu muốn nói trong dụ ngôn người phú hộ dại khờ. Người nói với chúng ta rằng khi chúng ta chết điều đáng kể không phải là tài sản chúng ta kiếm được khi còn sống, nhưng là con người mà chúng ta trở thành trong hành trình cuộc đời.

Chúa Giêsu nói rằng điều ưu tiên trong đời sống phải là trở nên một con người đích thực, chứ không phải tìm kiếm tài sản.

Một cách cụ thể, chúng ta đã vi phạm điều ưu tiên mà Chúa Giêsu muốn nói đến khi chúng ta tìm kiếm của cải mà trở nên thiếu thành thật, khi chúng ta có được quyền thế mà trở nên tàn nhẫn độc ác, khi chúng ta được nổi tiếng trong cộng đồng mà quên đi chính gia đình mình.

Nói tóm lại, chúng ta đã vi phạm điều ưu tiên mà Chúa Giêsu nói đến khi chúng ta có được của cải chóng qua ở thế gian này mà đánh mất của cải vĩnh cửu ở đời sau.

Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại các ưu tiên trong đời sống. Hãy nghĩ như thế này.

Nếu có ai hỏi con bạn, “Ưu tiên hàng đầu của bố con trong đời sống là gì?” thì con bạn sẽ trả lời thế nào?

Liệu cháu sẽ nói, “Ô dễ quá. Ưu tiên hàng đầu của bố cháu là gia đình!” Hoặc cháu sẽ nói, “Ưu tiên hàng đầu của bố cháu là công việc làm ăn!”

Hoặc nếu có ai hỏi cô con gái bạn, “Ưu tiên hàng đầu của mẹ con trong đời sống là gì?” thì con bạn sẽ trả lời thế nào?

Liệu cháu sẽ nói, “Ô dễ quá. Ưu tiên hàng đầu của mẹ cháu là gia đình!” Hoặc cháu sẽ nói, “Cháu cũng không biết rõ nhưng chắc chắn không phải là gia đình!”

Hoặc nếu có ai hỏi cha bạn: ưu tiên của bạn là gì, thì cha bạn sẽ trả lời sao?

Liệu ông có trả lời như một người cha nọ đã nói, “Thật khó thú nhận, nhưng tôi phải nói là nó chỉ biết đến mình. Nó chẳng thích gì cả trừ khi điều đó có lợi cho nó.”

Nhiều năm trước đây, vào một buổi sáng nọ ông Alfred Nobel mở tờ nhật báo ra và thấy bài cáo phó của mình ở trong đó. Một phóng viên người Pháp đã cẩu thả loan tin ông từ trần thay vì em của ông.

Ông Alfred thật bàng hoàng. Vì lần đầu tiên trong đời, ông nhìn về chính mình dưới con mắt của người khác. Ông thấy chính mình như một “ông vua thuốc nổ” đã dùng toàn thể cuộc đời để chế tạo vũ khí sát hại và tiêu diệt.

Sáng hôm ấy, ông Nobel quyết tâm thay đổi hình ảnh người ta nhìn về ông. Sự quyết tâm của ông đã đưa đến kết quả là các giải thường Nobel hằng năm trong các lãnh vực vật lý, hóa học, y học, văn chương và hòa bình.

Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy thi hành giống như ông Alfred Nobel. Nó mời gọi chúng ta hãy tưởng tượng đọc bài cáo phó của mình. Nó mời gọi chúng ta nhìn về chính mình dưới con mắt của người khác. Nó mời gọi chúng ta nhìn về con người thực sự của mình. Nó mời gọi chúng ta nhìn về chính mình như Thiên Chúa nhìn chúng ta.

Hoặc, theo ngôn ngữ trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, nếu chúng ta phải ra trước mặt Thiên Chúa tối nay để báo cáo về cuộc đời trần thế này, thì liệu Thiên Chúa có nói với chúng ta như Người đã nói với ông phú hộ kia:

Sao con dại thế! Nếu đêm nay con phải từ giã cuộc đời này thì ai sẽ hưởng tất cả những gì con cất giữ cho mình?

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, Chúa đã nói với các môn đệ, “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?” Xin Chúa giúp chúng con luôn ghi nhớ những lời ấy. Xin giúp chúng con nhìn ra con người đích thực của chúng con.

Nhất là xin giúp chúng con nhận ra điều đáng kể khi chúng con từ giã cõi đời này, không phải những gì chúng con kiếm được, nhưng là con người mà chúng con phải trở thành trong hành trình cuộc đời.

HÃY BỀN TÂM VỮNG CHÍ

HÃY BỀN TÂM VỮNG CHÍ

Nhìn lại mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người ta cảm thấy có điều gì đó nực cười nhưng lại không dám cười. Có lẽ điều nổi bật nhất là con người không ngừng lỗi phạm đến Thiên Chúa và Thiên Chúa không ngừng thứ tha cho con người. Và rồi, xét cho kỳ cùng: cũng nhờ sự lỗi phạm ấy mà con người biết rõ hơn về Thiên Chúa và về chính bản thân mình: mình thì hết sức mỏng dòn và Thiên Chúa thì thật gần gũi, rộng lượng và luôn thứ tha.

Kinh nghiệm tâm linh này giúp mỗi người sống khiêm nhường, tin cậy phó thác hơn vào Thiên Chúa và và kiên trì hơn trong cầu nguyện. Trong lãnh vực quan trọng này, chúng ta có một vị tôn sư tuyệt vời là chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Hãy học với Người để biết cách cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa và ích lợi cho bản thân mình.

Nhớ lại câu chuyện trả giá như trả giá khi đi chợ giữa Abraham và Thiên Chúa thật dễ thương. Abraham cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân thành Sôđôm và Gômôra và xin đừng đoán phạt. Sự đối thoại trả giá diễn tả tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Ông Abraham lý luận theo cách suy tưởng của con người. Ông biết rằng trong đời sống con người, có kẻ tốt, người xấu và kẻ lành, người dữ. Thiên Chúa yêu thương mọi người. Chẳng lẽ Chúa phạt cả kẻ dữ lẫn người lành sao: Abraham lại gần và thưa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? (St 18, 23).

Ông Abraham ước muốn Thiên Chúa tha phạt cho cả thành, vì nghĩ rằng có một số người lành đang chung sống giữa họ. Ông thưa: Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? (St 18, 24). Thiên Chúa ban ơn mưa móc xuống cho cả kẻ lành, người dữ. Người lành thánh có thể giúp người tội lỗi hối cải và người tội lỗi cũng có thể giúp cho người lành phấn đấu sống thánh thiện hơn.

Ông Abraham đã trả giá với Thiên Chúa, từ 50 người lành xuống tới chỉ còn 10 người. Cả thành không kiếm được mười người lành, nên thành Sôđôm phải chịu hình phạt. Chúa nhân từ trong mọi lời Chúa phán và thánh thiện trong mọi việc Chúa đã thực hiện. Chúa sửa phạt rồi Chúa lại tha thứ và đón nhận trở về.

Lịch sử ơn cứu độ là một cuộc phấn đấu không ngừng để tinh luyện con dân nên thánh thiện. Ông Abraham hết lời: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? Chúa đáp: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Sôđôm” (St 18, 32).

Cầu nguyện như là một trong các nhu cầu căn bản và là một điểm quan trọng trong đời sống của người môn đệ của Chúa Giêsu và của cộng đoàn các môn đệ.

Trang Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói về điều tối cần thiết phải bền tâm, kiên trì cầu nguyện dù điều chúng ta nài xin Thiên Chúa là điều khó khăn được Ngài chấp nhận. Thánh Sử Luca viết nhiều đoạn trong Tin Mừng về sự cầu nguyện : Chúng ta có thể xem Luca đoạn 5, 16 ; 6,12 ; 11, 1-13.

Một hoàn cảnh khó được toại nguyện: Trong đêm khuya khoắt, người bạn đang ngủ ngon giấc, mà có người đến xin mượn vài chiếc bánh cho người thân lỡ độ đường, đang đói bụng… nhưng người này cứ lải nhải mãi, thì người kia dù không muốn, cũng phải bắt buộc cho như ý người đó xin, chỉ vì để khỏi bị quấy rầy!

Vị thẩm phán trong đoạn Tin Mừng trên là vị thẩm phán tồi tệ: Không kính sợ Thiên Chúa, cũng không vị nể bất cứ ai, cũng không xử theo luật pháp! … nhưng ông lại chịu minh oan cho bà goá, chỉ vì bà giai giẳng quá, kiên nhẫn quá, ông chịu không nổi sự giai giẳng như đỉa đói của bà, nên đã gia ân cho bà! Không vì lý do nào khác!

Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh như thế, để tất cả chúng ta, dù lâm cơn khổ cực, dù hoàn cảnh éo le nhất, khó khăn nhất, không trông mong gì được Chúa thương, thì cũng hãy bền tâm khẩn nguyện, đừng bao giờ sờn lòng, nản chí!

Chúa Giêsu dùng hình ảnh vị thẩm phán tồi tệ nhất để khích lệ tất cả chúng ta, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng đừng mất niềm Tin Cậy Thiên Chúa, Ngài là Quan Án Chí Công, Vô Cùng Xót Thương, Ngài biết tất cả mọi nhu cầu, mọi trăntrở, éo le trong mọi cuộc sống chúng ta! Ngài nghe chúng ta ngay cả khi ta chưa kịp thốt nên lời kêu cứu.

Thật vậy, Thiên Chúa và chỉ mình Ngài, là Đấng nói lên phán quyết cuối cùng, đúng lúc để giải thoát chúng ta, những người bền chí Cậy Tin nơi Ngài! Đôi lúc Ngài có vẻ như chậm trễ, nhưng trước sau, Ngài sẽ đến cứu thoát những ai tin kính Ngài! Những người luôn nhẫn nại, kiên trì, giai giẳng tin cậy Chúa, không bao giờ thoái lui! Hãy cậy trông Thiên Chúa ngay cả những lúc chúng ta nghĩ rằng: Thiên Chúa không muốn đáp lời, không muốn ban Ơn nhưng nếu cứ nài van, thì sẽ được toại nguyện!

Qua đoạn Tin Mừng trên, Chúa Giêsu dạy ta hãy bền chí, tin tưởng nài xin dù trong hoàn cảnh khó khăn, không còn chút hy vọng, cũng cứ liên lỉ nguyện cầu, thì sẽ được Thiên Chúa nhận lời.

Giống như các môn đệ, chúng ta cũng hãy cùng nhau tề tựu chung quanh Chúa Giêsu đang cầu nguyện một mình.  Chúng ta quây quần chung quanh Người và trong Người với tất cả sức lực của chúng ta, mọi ý nghĩ, mọi lời cam kết và mối bận tâm, niềm hy vọng và nỗi đau khổ của chúng ta…

Ngày nay nhân loại tồn tại và Giáo Hội tiếp tục sống còn là nhờ đời sống nhân đức của các bậc thánh nhân, những tín hữu nhiệt thành và những con người thành tâm sống gương mẫu giữa đời. Giáo hội luôn luôn cần những gương sáng để soi dọi cho những ai ngồi trong bóng tối sự dữ và sự chết.

Hôm nay, lời của Người đang nói với chúng ta, lời mời gọi tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha gửi đến cho chúng ta.  Thật ra, ta đã mãi mê với vật chấtđể rồi đến một lúc nào đó ta khám phá ra rằng tất cả những thứ đó chỉ là phù phiếm …

Sự dữ và khổ đau thất vọng đang bao phủ ta, ngoài Thiên Chúa, không thể tìm đâu được Ơn Giải Thoát! Mỗi người chúng ta rất cần có Ơn Phù Trợ của Thiên Chúa. “Dưới gầm trời này, không thể có Danh Hiệu nào cứu được chúng ta, ngoài Danh Thánh Chúa Giêsu” đó là điều Kinh Thánh đã quả quyết! Và như vậy, ta tuyệt đối cần sự trợ giúp của Thiên Chúa! Nếu không có Ngài, tất cả chúng ta sẽ không tìm đâu được Ơn Cứu Độ, và do đó, sẽ bị khổ đau và trầm luân muôn kiếp! Thiên Chúa, dù Ngài có trì hoãn đến cứu giúp, nhưng chắc chắn rằng: Ơn Cứu Thoát sẽ đến đúng lúc để cứu các con yêu luôn tuyệt đối tin tưởng, bền chí khẩn nguyện với Ngài!

Những nghịch cảnh, khổ đau trong cuộc sống là chiến trường, nơi tôi luyện Đức Tin hoàn toàn nơi Thiên Chúa cho các con của Ngài. Những nhu cầu cấp bách của linh hồn hay thân xác chúng ta là nguyên nhân giúp chúng ta thành tâm gối quỳ thiết tha khẩn nguyện liên lỉ với Thiên Chúa. Đây là dịp để chúng ta xác tín hơn: Chỉ một mình Thiên Chúa là nơi duy nhất có thể giải cứu, phù trợ ta. Chính  Ngài là núi đá, là thành lũy vững chắc nhất để ta đến nương thân trong ngày đen tối.

Trong đời sống đức tin, khi gặp những khó khăn sợ hãi, và rồi có những lúc chúng con thấy nhàm chán trong việc cầu nguyện, tất cả những cám dỗ và trở ngại đó khiến ta giảm bớt lòng tin vào vào Chúa.

Bài học Chúa dạy ta hôm nay là hãy kiên trì trong cầu nguyện, chính sự kiên trì trong cầu nguyện cũng là sự bền đỗ trong đức tin. “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ”. Xin cho ta luôn kiên trì trong cầu nguyện, để trong khi cầu nguyện ta tập luyện tin tưởng, cậy trông vào Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi tâm tư ước vọng của chúng con, Ngài luôn biết ta đang cần gì.

Và ta xin cho ta kiên trì cầu nguyện, để ta biết tạ ơn Chúa khi Chúa thương ban ơn cho ta, biết kiên trì và chờ đợi Chúa với niềm tin tưởng cậy trông, vì ta biết rằng Chúa luôn ban cho ta những điều tốt nhất, hơn cả những điều ta ước mong.

Hồi giáo: Tiếng nói ngôn sứ (và bị khinh thường) của Đức Bênêđictô XVI ở Ratisbonne

Đức Bênêđictô XVI đã mời gọi hồi giáo đối thoại về lý tính, nhưng tất cả, kể cả Phương Tây đều tấn công ngài không thương xót. Dù vậy, ngài có lý…

Trong khi bạo lực của nhóm Nhà nước Hồi giáo Tự xưng tấn công tín hữu kitô, người yezidi và các sắc dân thiểu số khác, các tiếng nói mới cùng nhau kết hợp lại để lên án. Đó là những tiếng nói của thế giới hồi giáo, của các giáo sĩ Pháp và của trung tâm liên tôn giáo Kaichid (Trung tâm quốc tế Vua Abdullah Ben Abdelaziz), qua trung gian các nhà trí thức, các ký giả khắp mọi miền, cho đến các cuộc biểu tình cảm động của những người dân bình thường…

Đồng loạt lên án

Những người cuồng tín giật dây hồi giáo, làm hư hỏng Kinh Coran và phản bội tôn giáo mà họ tuyên bố là họ giữ đạo. Họ làm chúng ta đau đớn nghĩ lại bài diễn văn ở Ratisbonne của giáo sư Ratzinger. Ngày 13 tháng 9-2006, Đức Bênêđictô XVI viếng thăm Đại học Ratisbonne, nơi, trong quá khứ ngài đã dạy ở đó. Ngài đã đọc một bài diễn văn đáng nhớ và ngày hôm nay vẫn còn vang vọng sức mạnh của nó. Ngài nói đến ơn gọi tự nhiên của các tôn giáo là công chính và hòa bình. Hòa bình mà sự kiến tạo tùy thuộc vào sự ăn khớp đúng đắn giữa đức tin và lý tính, một trong các chủ đề chủ yếu của nền thần học và giảng dạy của ngài.

Ngài giải thích làm sao, khi đối thoại thất bại thì sẽ xuất hiện các căn bệnh của lý tính và của tôn giáo, và cuối cùng sẽ đẩy họ trượt vào chủ nghĩa cuồng tín. Chính lúc đó, trước trào lưu dâng cao của mất lý tính đội lốt dưới chủ nghĩa chính thống, ngài đưa ra một thách thức cho người hồi giáo để lên án bạo lực như phương tiện để áp đặt đức tin, cũng như các tín hữu kitô cũng phạm cùng lỗi lầm như vậy trong quá khứ.

Đức Bênêđictô XVI đã xát muối vào vết thương

Ba phản ứng cần nhớ lại. Một mặt, thế giới báo chí và trí thức Phương Tây, nhân danh bao dung và tự do, phản ứng một cách hung bạo và phi lý chống Đức Bênêđictô XVI, quy cho ngài là cuồng tín và khiêu khích, trong khi thực tế, ngài đưa ra một lời kêu gọi khiêm tốn và xác thực cho đối thoại trong lý tính.

Mặt khác, những người phản bội Kinh Coran đưa ra những lời lên án, làm kích động thêm bạo lực. Trong cả hai trường hợp, họ đều phải thấy rằng giáo sư uyên bác Ratzinger có lý. Người này người kia cho thấy, họ bị đau vì các căn bệnh được mô tả  trong bài diễn văn của Ratisbonne.

Phản ứng đáng quan tâm nhất đến từ hồi giáo. Một nhóm quan trọng các nhà lãnh đạo và trí thức hồi giáo đã ký một bức thư, trong đó họ nêu ra thách thức của đối thoại (Một thế giới chung giữa Chúng tôi và Các bạn, A common world between Us and You). Trọng tâm của họ là Vương quốc Giócđani, và phong trào nhanh chóng lan ra khắp nơi. Trong tài liệu này, còn nhấn mạnh hơn nữa các bất đồng ý kiến của họ với giáo sư, tất cả những người có tham vọng áp đặt bằng bạo lực «các giấc mơ không tưởng, trong đó mục đích biện minh cho phương tiện». Họ chứng minh Đức Bênêđictô XVI không phải là người duy nhất có lý.

Phải biết rằng, bài diễn văn và bức thư này không khởi động được đối thoại giữa người hồi giáo và kitô giáo. Nhưng chắc chắn, chúng là một yếu tố quan trọng để cổ động cho những mức độ chưa bao giờ được đạt tới. Ngày nay, tôi chắc chắn, cuộc đối thoại này mang thành quả của nó, không những giữa những người ưu tú, nhưng cả với những người bình thường, mà trước khi xuất hiện các vụ cuồng tín này, họ đã làm cho sự sống chung liên tôn giáo theo cách tự nhiên của họ, và bây giờ họ kháng cự vì họ muốn tiếp tục sống theo cùng một cách.

Theo tôi, đó là tiếng nói mạnh nhất giữa tất cả các tiếng nói có thể được nghe. Cuộc gặp gỡ giữa dân chúng và các nhà trí thức làm cho tôi đầy hy vọng. Khi tương quan này được nuôi dưỡng bằng sự kiên nhẫn và kiên trì thì lúc đó nó sẽ phát sinh ra các phong trào văn hóa cực mạnh.

 

Ánh sáng lờ mờ của Ratisbonne

Tuy nhiên, bài diễn văn đáng nhớ của Ratisbonne có những hệ quả khác mà bây giờ chúng ta có thể quan sát ánh sáng lờ mờ của nó. Lời của Đức Bênêđictô XVI mang đến một xung năng mới cho một ý tưởng, sinh ra từ thực tế của các vụ bách hại tôn giáo của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, được nhìn dưới ánh sáng Phúc Âm; ý tưởng được giải thích rõ ràng ở Công đồng Vatican II, sau đó được bồi dưỡng bởi Giáo huấn và ăn khớp tốt hơn bởi nền ngoại giao của Tòa Thánh.

Người ta muốn làm tự do tôn giáo thành một trong những hòn đá tảng của Luật và các tương quan quốc tế. Vì thế Giáo hội phải liên tục cố gắng để làm thuận lợi cho tiếng nói của các nhà lãnh đạo và các phong trào tôn giáo, những người đi tìm hòa bình và công chính, để sự sống chung hòa hợp trong từng xã hội được thiết lập; một sáng kiến thường được mang tên là «tinh thần Axixi». Như thế tự do tôn giáo trở nên văn hóa với sự hỗ trợ dứt khoát của nền chính trị chung của nhiều quốc gia.

Khổ thay, cả nước Mỹ lẩn Liên hiệp Âu châu đều không muốn nghe bài diễn văn Ratisbonne, không muốn nghe lời đề nghị của Giáo hội, lại càng không muốn nghe các lý tính xuất sắc tiến bộ của các giáo sư đại học và của các nhà ngoại giao của nhiều nước khác nhau. Các chính trị gia và các nhà ngoại giao Phương Tây hình như ở một hành tinh khác. Khi các tôn giáo ở trên con đường của họ, điều luôn xảy ra, thì họ mất tất cả ý thức về thực tế, mù quáng vì tính hống hách kiêu ngạo của mình. Các cố gắng để thuyết phục cho họ nghe lý tính thì đều bị diễn giải như một sự vi phạm tính thế tục tận căn của họ. Đó là một sự nhục nhã.

Tính thế tục của Phương Tây – chính trị, trí thức, truyền thông – đã đẩy lui lời đề nghị, và không muốn nhưng lại thành đồng lõa vì quên đi chủ nghĩa tận căn đã lèo lái hồi giáo, đến mức tạo ra một ý thức hệ của sự loại trừ. Sự không thấu hiểu của họ đến mức đã làm cho họ cố gắng giữ im lặng trước sự hy sinh của tín hữu kitô và các sắc dân thiểu số khác ở Trung Đông. Nhưng thực tế ngang bướng và áp đặt lên họ. Đã đến lúc phải hiểu, chỉ duy nhất các hành động đa diện dựa trên chiến thuật làm cho tự do tôn giáo và đối thoại liên tôn giáo là hòn đá tảng để có thể có được hòa bình, công chính và ổn định cho Trung Đông. Đứng trước sự đè nặng quá hiển nhiên, không biết họ có hiểu bài học của vị giáo sư lớn tuổi dạy không? Câu trả lời tùy thuộc vào tầm mức to lớn của tính kiêu ngạo của họ.

Ngày nay, điểm mạnh là chứng thực Đức Bênêđictô XVI đã có lý vượt lên cả bài diễn văn ở Ratisbonne. Trong những hàng đầu của quyển sách Dẫn nhập vào Kitô giáo, ngài nhắc chúng ta dụ ngôn của triết gia Kierkegaard về anh hề và ngôi làng đang cháy: một gánh xiếc đang cắm trại ở ngoại vi ngôi làng và bỗng có đám cháy. Ông chủ gởi anh hề đi báo động, lúc đó anh đã mặc y phục để ra sân khấu. Dân làng không nghe anh báo động, lại còn cười khi thấy anh cố gắng làm mà hoài công. Cuối cùng khi họ biết thì đã quá trễ. Ngôi làng trở thành mồi cho ngọn lửa. Ở Trung Đông, dụ ngôn này đã trở thành thực tế.

Tuy nhiên Đức Bênêđictô XVI không kêu gọi nản chí. Thần học và giáo huấn của ngài mang đầy hy vọng của một sự thông minh sắc bén. Lời kêu gọi của ngài là thực tế trong hy vọng. Tình trạng hiện nay của người rao giảng Tin Mừng trong một nền văn hóa dửng dưng thì thực chất cũng không có gì mới. Là Giáo hội, chúng ta không chia sẻ số phận của mình với anh hề, nhưng là với tất cả các thánh và các ngôn sứ đã ở trên quả đất này. Đó là lời tiên tri Giêrêmia  (20, 8-9): «Vì Lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa’; nhưng rồi Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được». Tôi tin chắc, đó là ngọn lửa mà Chúa Giêsu mang đến thế gian và Ngài muốn thấy nó được cháy.

Bài diễn văn Ratisbonne trở nên một lời kêu gọi lại. Nước Trời giống như hạt cải, khi được gieo xuống đất, nó được lớn lên ngày cũng như đêm, dù người nông dân không thấy cho đến khi nó mang hoa trái dồi dào. Và Chúa Giêsu đã nói như thế.

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Porziuncola

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Porziuncola

 

Ngày 4-8 tới đây, ĐTC Phanxicô sẽ đến hành hương tại Porziuncola, ngôi thánh đường nhỏ ở bên trong Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ các thiên thần của các cha dòng Phanxicô gần Assisi.

Cuộc hành hương diễn ra 2 ngày sau khi khai mạc các buổi lễ kỷ niệm 800 năm ơn Toàn Xá tại Assisi.

Ngôi nhà thờ nhỏ dâng kính Đức Mẹ các thiên thần có lẽ được xây hồi thế kỷ thứ 4 và sau đó thuộc quyền sở hữu của các cha dòng Biển Đức. Nhà thờ được gọi là Porziuncola, nghĩa đen là mảnh đất nhỏ. Thánh đường bị bỏ hoang trong thời gian dài và là nhà thờ thứ 3 được thánh Phanxicô Assisi trực tiếp tu bổ sau khi nhận được mệnh lệnh từ Đấng Chịu Đóng Đanh trên thánh giá ở nhà thờ thánh Damiano.

Tại nhà thờ này, thánh Phanxicô hiểu rõ ơn gọi của mình và đã lập dòng Anh em Hèn mọn vào năm 1209. Tại đây, 2 năm sau, vào ngày 28-3 năm 1211, Clara được thánh Phanxicô trao áo dòng, khởi sự dòng thánh Clara.

Cách đây đúng 8 thế kỷ, tức là vào năm 1216, trong một thị kiến, thánh Phanxicô được chính Chúa Giêsu ban ơn toàn xá, hay cũng gọi là ơn Tha Thứ ở Assisi, việc ban ơn này được ĐGH Onorio III phê chuẩn.

Để kỷ niệm 800 năm biến cố này, ĐTC Phanxicô đến hành hương tại Porziuncola, mà ngài gọi là ”con tim đang đập của dòng Anh Em Hèn mọn”.

Theo chương trình được công bố hôm 20-7 vừa qua, ĐTC sẽ đáp trực thăng từ Vatican tới sân thể thao Migaghelli, lúc 3 giờ 40 chiều ngày 4-8, rồi dùng xe đến Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ các Thiên Thần. Tại đây vào lúc 4 giờ, ngài sẽ được Cha Michael Anthony Perry, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, cùng với cha Giám tỉnh Phanxicô miền Umbria và cha Bề trên tu viện địa phương đón tiếp.

ĐTC sẽ cầu nguyện trong thinh lặng tại nhà thờ nhỏ Porziuncola, trước khi trình bày một bài suy niệm cho các tu sĩ và giáo dân hiện diện trong Vương cung Thánh Đường, dựa vào Tin Mừng theo thánh Mathêu, đoạn 18, từ câu 21 đến 35.

Sau bài suy niệm huấn giáo, ĐTC sẽ chào thăm các GM và các Bề trên Phanxicô hiện diện, rồi đến bệnh xá nơi có 15 tu sĩ Phanxicô và 1 LM giáo phận đang được điều trị săn sóc. Ngài cũng chào thăm các nhân viên phục vụ tại đây.

Sau cùng, ĐTC sẽ tiến ra thềm Đền thờ để chào thăm các tín hữu tụ tập tại đây, trước khi giã từ vào lúc 6 giờ chiều để trở về Roma, cách đó khoảng 200 cây số (SD 20-7-2016)

Thánh MARIA MADALENA

Các Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.

Người thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc VII, 36-39).

 

Đàng khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc VIII, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, Ngài cũng thuộc vào số các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, Ngài đã thấy và nói truyện với các thiên thần. Sau cùng, Ngài đã nhận ra Đấng Phục Sinh mà thoạt đầu Ngài tưởng là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).

 

Maria Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà Ngài là người đã chọn phần tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô, thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu Ngài tới gặp “thầy”. Ít ngày sau, Ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).

 

Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người và ý kiến các giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.

 

Với sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Laxarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên “Maria” buổi sáng phục sinh.

 

Sau đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, Ngài đã từ trần và được mai táng ở Ephêsô. Năm 889, hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.

MARIA MAĐALÊNA, BÀ LÀ AI?

Maria Mađalêna có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài, gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các thánh và cả những môn đệ của Đức Kitô qua nhiều thời đại.

MARIA MAĐALÊNA, BÀ LÀ AI?

Maria Mađalêna có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài, gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các thánh và cả những môn đệ của Đức Kitô qua nhiều thời đại. Tiếng tăm này không thể dễ dàng giải thích dựa vào các thông tin về bà trong Kinh Thánh. Điều Tân Ước nói về bà thật ít ỏi và gây thất vọng, đơn giản chỉ gọi bà là Maria Mađalêna hay Maria thành Magđala, nhưng có một chi tiết nhỏ thật có ý nghĩa và thách đố. Cả bốn Tin Mừng đều khẳng định bà là môn đệ gương mẫu cho mọi thời đại.

Có điều gì đó bí ẩn và hấp dẫn về người phụ nữ này trong các Tin Mừng. Một người phụ nữ mà tên riêng không đi kèm với tên một người đàn ông nào khác ngay trong Tân Ước thì đó là điều thật có ý nghĩa. Khi xếp bà riêng ra thì hoặc bà là một nhân vật ngoại thường hoặc có vấn đề gì ở đây. Có lẽ chính vì thế mà óc tưởng tượng bình dân đã “điền vào chỗ trống” và gán ghép bà với những phụ nữ khác trong Tân Ước, tạo nên một khối tù mù. Trước khi xem các Tin Mừng nói gì thì chúng ta hãy xem thử những gì mà các Tin Mừng không hề nói.

Bà không phải là ai

Thỉnh thoảng Maria Mađalêna bị đồng hóa cách sai lầm với người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa Giêsu. Sự đồng hóa này lại càng thêm phức tạp bởi vì người ta thường nhầm lẫn câu chuyện xức dầu với một người phụ nữ tội lỗi, một cô điếm. Và góp phần khiến vấn đề trở nên tệ hại hơn là hình ảnh của Maria Mađalêna và một người phụ nữ bị cáo buộc ngoại tình trong Tin Mừng Thánh Gioan lại nhập nhằng với nhau.

Trong câu chuyện Khổ Nạn, dầu mục đích sử dụng câu chuyện khác nhau, cả bốn Tin Mừng đều nói về một phụ nữ xức dầu thơm chân Chúa Giêsu (Mc 14, 3-9; Mt 26, 6-13), Thánh Marcô và Matthêu đưa trình thuật nói về một phụ nữ vô danh xức dầu cho Chúa Giêsu có ý nói về cuộc mai táng của Ngài. Lúc ấy Chúa Giêsu đang ở nhà của ông Simon người phung hủi, ở Bêthania gần Giêrusalem. Thánh Gioan cũng thuật lại câu chuyện xức dầu chân Chúa Giêsu không lâu trước cái chết của Ngài, xác định người phụ nữ là Maria thành Bêthania, bà làm thế để tỏ lòng biết ơn Chúa Giêsu đã làm cho em bà là Lazarô sống lại. Maria là một tên gọi rất thông dụng và có lẽ chính vì thế mà hai bà tên Maria đã bị hòa lẫn vào nhau trong truyền thống Kitô giáo sau đó.

Thánh Luca kể về một phụ nữ vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu khi Ngài đang ngồi bàn ăn trong khi đang thực hiện sứ vụ (Lc 7, 36-50) chứ không phải lúc cuối đời. Lúc ấy Chúa Giêsu đang dùng bữa tối tại nhà ông Simon người Pharisiêu. Có lẽ Maria Mađalêna đã bị nhầm lẫn với người phụ nữ này bởi vì Maria Mađalêna lần đầu tiên được gọi đích danh trong câu chuyện tiếp liền ngay sau trình thuật xức dầu của Thánh Luca (Lc 8, 2). Góp phần để tạo thêm nhầm lẫn là người phụ nữ này đôi khi được miêu tả là người tội lỗi công khai (một cái tên thanh tao để gọi nghề làm điếm), người đã đổ nước mắt vì thống hối và hành động vì lòng hối hận. Thế nhưng người phụ nữ xức dầu chân Chúa Giêsu là một phụ nữ vô danh trong Tin Mừng Thánh Luca, và nếu bà được ghi nhớ chỉ vì “tội lỗi” của mình hơn là tình yêu đưa dẫn đến hành động xức dầu chân Chúa, thì điều đó vừa trái với ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa Giêsu vừa mới nói đến trong dịp này lại vừa không phải là mục đích của Thánh Luca khi kể lại câu chuyện.

Vấn đề càng thêm phức tạp khi có một vài thủ bản Tin Mừng Thánh Gioan (7, 53 – 8, 11) nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và gán ghép chị này với Maria Mađalêna. Một truyền thống lâu đời trong văn chương và nghệ thuật Kitô giáo đã vẽ nên một Maria Mađalêna là người tội lỗi ăn năn, sau khi gặp được Chúa Giêsu thì bà đã trải hết phần đời còn lại để khóc than tội lỗi mình. Thế nhưng các Tin Mừng không hề gán ghép Maria Mađalêna với người phụ nữ tội lỗi, hoặc tệ hơn nữa là một cô điếm.

Các Tin Mừng nói gì

Trong các Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca, bà được gọi là Maria Mađalêna hay “Maria Magđala” (xem Mt 27, 56.61; 28, 1; Mc 15, 40.47; 16, 1,9; Lc 8, 2; 24, 10). Thánh Gioan gọi bà là “Maria thành Magđala”, một thành phố vô danh trong Kinh Thánh (xem Ga 19, 25; 20, 1.18). Vài người cho rằng đó là thành phố Magađan (xem Mt 15, 39; Mc 8, 10), một thành phố nằm bên bờ Tây của Biển hồ Galilê, giữa Tiberia và Capharnaum.

Maria thành Magđala được ghép với một địa danh chứ không phải với tên của bất kỳ người đàn ông nào bên cạnh Chúa Giêsu. Trong thế giới Tân Ước, người phụ nữ thường gắn liền với chồng, cha, con trai hoặc anh em của họ. Như vậy, người phụ nữ vô danh đã theo Chúa Giêsu và hiện diện dưới thập giá đơn giản chỉ được gọi là “bà mẹ của các con trai ông Zêbêđê.” Tên gọi Zêbêđê xuất hiện ở đây không phải vì ông hiện diện dưới chân thập giá cùng với vợ con ông, những người đã theo Chúa Giêsu từ Galilê cho đến Giêrusalem. Song chính ông được nêu tên chứ không phải bà vợ đầy lòng tin của ông.

Maria thành Nazareth, Maria và Martha thành Bêthania được gắn liền với thành phố quê hương của họ nhưng đồng thời cũng được gắn liền với người đàn ông: Maria với Giuse, Maria và Martha với Lazarô. Còn Maria Mađalêna chính là môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu. Không có hàng chữ nào nói lên vai trò này của bà trong Tân Ước. Đúng ra, các Tin Mừng chỉ phác họa Chúa Giêsu là người thâu nhận “những người học việc” (“môn đệ”). Sau thời gian học tập với vị Tôn Sư, các môn đệ này được “sai đi” (ý nghĩa của từ “tông đồ”) để rao giảng và hành động với thẩm quyền của Chúa Giêsu. Từ các Tin Mừng, chúng ta biết rằng các môn đệ được kêu gọi. Chúa Giêsu dạy các môn đệ rằng họ phải làm nhân chứng, tiếp tục sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã khởi đầu. Các môn đệ được đòi hỏi phải theo Chúa Giêsu và kiên trì cho đến chết. Họ đã tin và rao giảng sự phục sinh.

Ơn gọi của Maria

Có vài môn đệ được kêu gọi từ bỏ cuộc sống đang đà thuận lợi. Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan đã “bỏ mọi sự” mà theo Chúa Giêsu (Mc 1, 18). Lêvi (hay Matthêu) là người thu thuế đã lập tức đứng dậy đi theo Chúa Giêsu (Mc 2, 13-14; Mt 9, 9). Những người khác đã bỏ lại bệnh tật và khiếm khuyết của mình và “ơn gọi” của họ thật sự là một phép lạ đúng nghĩa. Người mù gặp được Chúa Giêsu và được chữa lành. Kể từ đấy ông đã “đi theo Người trên con đường người đi” (xem Mc 10, 52). Tương tự như vậy, Maria Mađalêna sau khi được trừ “bảy quỷ,” đã đi theo Chúa Giêsu (xem Lc 8, 2; Mc 16, 9). Thánh Luca kê tên bà trong số mấy phụ nữ được trừ quỷ và chữa lành bệnh tật đã đi theo Chúa Giêsu từ Galilê đến Giêrusalem, chăm sóc cho Ngài.

Các chứng nhân làm chứng cho điều họ thấy và nghe. Các môn đệ được kêu gọi làm chứng cho Nước Trời đã đến trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu. Họ được trao ban nhiệm vụ (xem Mt 10; Lc 9 – 10) và được sai đi để làm điều Chúa Giêsu đã làm (Lc 10, 1.3.9). Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải trở nên đất tốt để “khi nghe Lời Chúa với tấm lòng cao thượng và quảng đại, họ nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8, 15). Lời dạy này phù hợp với những miêu tả về Maria Mađalêna, sau khi được trừ quỷ, đã kiên trì và trung thành theo Chúa Giêsu cho đến khi Ngài chết trên thập giá, ngoài ra còn lấy nguồn lợi tức của riêng mình để chăm sóc cho Ngài và các môn đệ khác với tình chân thật và lòng quảng đại.

Theo Thánh Marcô, lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước cuộc Khổ Nạn là “Hãy tỉnh thức!” (Mc 13, 36). Họ đã chứng kiến sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu và cuối cùng là sự phục sinh của Ngài. Thế nhưng các tác giả Tin Mừng nhìn nhận rằng các đấng môn đệ nam nhi đã không thể “tỉnh thức” với Chúa Giêsu dầu chỉ một thời gian ngắn ngủi trong Vườn Cây Dầu. Vậy mà bà Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã “tỉnh thức” để trông xem cuộc đóng đinh và rồi nán lại để “nhìn xem” xác Ngài được đặt ở đâu. Thánh Matthêu nói rằng Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã ra mộ từ sáng sớm ngày Phục Sinh để “trông chừng” ở đấy (xem Mt 27, 55-56.61; 28, 1.8-10). Họ đã “xem thấy” ngôi mộ trống. Cuối cùng, theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, những phụ nữ này đã nghe sứ điệp phục sinh và về thuật lại cho những người khác. Họ đã được “sai đi” làm sứ giả hay tông đồ cho các môn đệ khác.

Chứng nhân và sứ giả

Marcô đã xếp đặt bà Maria Mađalêna và những phụ nữ khác đứng dưới chân thập (Mc 15, 40-41). Sử dụng Tin Mừng Marcô, Thánh Luca đã đặt ngay tâm điểm sứ vụ của Chúa Giêsu đoạn văn nói về những phụ nữ đi theo Ngài từ Galilê cho đến Giêrusalem để nói lên đức tin và sự kiên trì của họ (Lc 8, 1-3). Còn theo Thánh Luca, tại Bữa Ăn Tối Cuối Cùng, Chúa Giêsu nhắc đến các môn đệ như là những người cùng đứng với Ngài trong cơn thử thách, “một lòng gắn bó với Thầy giữa lúc gian nan” (Lc 22, 28). Maria Mađalêna chắc chắn là một trong số người đó.

Bất kỳ khi nào được nêu tên (ngoại trừ Ga 19, 25-27), Maria Mađalêna đứng đầu danh sách những phụ nữ đi theo và hầu hạ Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, các phụ nữ này đã rời bỏ tuyến hậu phương để xuất hiện dưới chân thập giá. Chỉ trong Tin Mừng Thánh Gioan thì nhóm phụ nữ này gồm có cả “thân mẫu Chúa Giêsu,” cùng với chị của thân mẫu Chúa Giêsu là bà Maria vợ ông Clopas, và Maria Magđala” (Ga 19, 25). Được sự ttháp tùng của các phụ nữ này cũng như người Môn đệ Chúa yêu (theo chứng từ của Tin Mừng thứ tư), “thân mẫu Chúa Giêsu” đến sát cây thập giá đủ gần để nghe Chúa Giêsu trăn trối mình cho người môn đệ ấy chăm sóc. Maria Mađalêna cũng đứng gần đấy, chứng kiến cái chết và lắng nghe Ngài như bà đã từng làm trong suốt cuộc đời mình.

Trái hẳn với các môn đệ nam nhi đã bỏ Chúa Giêsu mà chạy trốn, Maria Mađalêna cùng những người đồng hành phụ nữ không chỉ chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu mà còn nán lại để xác minh nơi chôn cất. Và các bà đã quay trở lại ngôi mộ để xức dầu thơm xác Ngài vào lúc sáng sớm sau ngày Sabbath. Sau khi được Chúa Giêsu hiện ra, Tin Mừng Nhất Lãm nói rằng bà Maria Mađalêna đã đi và nói cho các môn đệ khác biết sự việc đã xảy ra thế nhưng họ không tin phụ nữ (Mc 16, 20; Lc 23, 49). Dường như các môn đệ không tin vì họ xưa nay vốn chẳng tin chuyện phụ nữ.

Trong Tin Mừng Gioan, Maria Magđala đi ra mồ “từ lúc sáng sớm khi trời còn tối.” Thấy tảng đá che cửa mồ đã lăn sang một bên, bà chạy đi báo cho Simon Phêrô và Người môn đệ Chúa yêu (Ga 20, 1-2). Cả ba chạy trở lại ngôi mộ rồi các môn đệ trở về (Ga 20, 9). Maria vẫn ở lại, khóc lóc (Ga 20, 11). Cuối cùng, Chúa Giêsu hiện ra và nói chuyện với bà (20, 11-18). Bà đã về và báo cho các môn đệ rằng: “Tôi đã thấy Chúa” và kể lại những gì Ngài nói với bà (Ga 20, 18). Trong Tin Mừng Thánh Gioan, không thấy có ám chỉ nào nói rằng Phêrô và những môn đệ khác không tin Maria hoặc bà là một chứng nhân không đáng tin vì là phụ nữ. Gioan chỉ nói rằng Phêrô và Môn đệ Chúa yêu đã chạy ra mộ để nhìn tận mắt, và người môn đệ Chúa yêu đã tin. Gioan dường như bóng gió rằng Phêrô không tin ngay lập tức. Maria Mađalên đã thấy chính Chúa Giêsu và lòng tin của bà được khẳng định trong nhiệm vụ được giao là nói cho những người khác biết về sự phục sinh của Chúa.

Vài kết luận

Các Tin Mừng đã phản ảnh một tranh luận trong xã hội ở thế kỷ đầu tiên về giá trị chứng từ của những người phụ nữ. Sự chắc chắn và nhất quán của các Tin Mừng về tính đáng tin cậy của những phụ nữ và đặc biệt của Maria Mađalêna cho thấy rằng các cộng đoàn tín hữu của Chúa Giêsu đã có một nhãn quan mới về phụ nữ và chỗ đứng của họ trong một xã hội mới và trong Giáo Hội. Một cách rất có ý nghĩa, các Tin Mừng đã ghi lại sự thất bại thảm hại của các đấng môn đệ nam nhi trong “giờ khắc” gay cấn nhất, rồi tiếp theo đó là họ đã không tin Maria Mađalêna cùng những phụ nữ khác đã vội vã chạy về loan tin Chúa Giêsu phục sinh cho họ.

Kinh Thánh thoát thai trong một nền văn hóa gia trưởng phụ quyền. Trong nền văn hóa như vậy, người ta nói về phụ nữ không mấy tích cực. Để vượt qua bối cảnh này, cần phải thẳng thắn khi nói về các đấng môn đệ nam nhi cư xử như thế nào vào thời khắc cao điểm trong cuộc tự hiến của Đức Giêsu và giải thích vai trò cần thiết của các phụ nữ cũng trong thời điểm ấy. Trong suốt Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng, hình ảnh tích cực của các phụ nữ vẫn còn là một tiếng nói muốn được giải thích và trả lại tính xác thực.

Maria Mađalêna đã bị đánh giá sai thậm chí bị khinh khi, qua nhiều thế kỷ chúng ta đã đánh mất hoặc bỏ qua vai trò của bà như là người tông đồ đầu tiên. Mặc dầu các bình luận về bà vẫn còn dè dặt để chỉ nói điều ít nhất, cả bốn Tin Mừng đều đồng ý rằng bà Maria Mađalêna đã ở dưới chân thập giá, nơi ngôi mộ trống và là một trong những chứng nhân đầu tiên về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Bà đã trở thành người mà phụng vụ mùa Phục Sinh gọi là “Apostola Apostolorum” (Tông đồ của các Tông đồ).

Mary Ann Getty

Thiệp mời Thánh Lễ Tấn Phong Giám Mục Phụ Tá

Thiệp mời Thánh Lễ Tấn Phong Giám Mục Phụ Tá

phan2

THÁNH MARIA MADALENA

THÁNH MARIA MADALENA

Các Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.

Người thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc 7, 36-39).

Đàng khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc 7, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, ngài cũng thuộc vào số các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, ngài đã thấy và nói truyện với các thiên thần. Sau cùng, ngài đã nhận ra Đấng Phục Sinh mà thoạt đầu ngài tưởng là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).

Maria Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà ngài là người đã chọn phần tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô, thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu ngài tới gặp “Thầy”. Ít ngày sau, ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).

Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người và ý kiến các Giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.

Với sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Lazarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên “Maria” buổi sáng Phục Sinh.

Sau đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, ngài đã từ trần và được mai táng ở Êphêsô. Năm 889, Hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.

Câu chuyện ngắn này đủ cho ta thấy người Do Thái thông minh đến mức nào

Đứng trước lựa chọn khó khăn, một cô gái Do Thái đã tìm ra cách xử lý tuyệt vời, vừa cứu được cha mình, vừa tự giải thoát chính bản thân khỏi tên trưởng giả xảo quyệt. Câu chuyện này một lần nữa đã chứng minh cho chúng ta thấy nhận định “người Do Thái thông minh” là vô cùng chính xác.

Trong ngôi làng nọ của người Do Thái, một người nông dân do hoàn cảnh khó khăn đã mắc nợ món tiền lớn của tên trưởng giả trong làng. Tên trưởng giả, dù rất già và xấu xí, lại luôn mơ tưởng về cô con gái trẻ đẹp của người nông dân. Vì vậy, hắn ta đề nghị một cuộc trao đổi.

Hắn nói rằng sẽ sẵn sàng từ bỏ khoản nợ kia nếu cưới được cô con gái. Hắn sẽ đặt một viên sỏi màu đen và một viên sỏi màu trắng vào một túi tiền rỗng. Sau đó, cô gái sẽ phải chọn một viên sỏi, có 3 trường hợp xảy ra:

Trường hợp 1: Nếu cô chọn phải viên sỏi màu đen, cô sẽ trở thành vợ hắn và nợ của cha cô sẽ được xóa hết.

Trường hợp 2: Nếu cô chọn phải viên sỏi trắng, cô không cần phải kết hôn với hắn và nợ của cha cô vẫn sẽ được xóa hết.

Trường hợp 3: Nếu cô từ chối chọn một trong hai viên sỏi, cha cô sẽ bị ném vào tù.

Khi đó, họ đang đứng trên một con đường rải đầy sỏi cạnh khu vườn của người nông dân. Khi nói chuyện, tên trưởng giả cúi xuống nhặt hai viên sỏi và cô gái tinh mắt nhận thấy rằng hắn ta đã bỏ vào túi cả hai viên sỏi màu đen. Sau đó, hắn yêu cầu cô gái chọn một viên từ chiếc túi này.

Đứng trước lựa chọn khó khăn đó, cô gái Do Thái đã tìm ra cách xử lý tuyệt vời vừa cứu cha mình, vừa tự giải cứu chính bản thân khỏi tên trưởng giả xảo quyệt.

Và đây là cách mà cô ấy làm:

Cô đưa tay vào chiếc túi và rút ra một viên sỏi. Không để cho mọi người kịp nhìn thấy, cô lóng ngóng làm rơi nó xuống con đường vốn rải đầy sỏi và nó ngay lập tức bị lẫn mất giữa vô số các viên sỏi khác. “Ồ, làm thế nào bây giờ, tôi vụng về quá”, cô nói. “Nhưng không sao, nếu ngài nhìn vào viên sỏi còn lại trong túi, ngài sẽ biết màu của viên sỏi mà tôi đã chọn”.

Tất nhiên, viên sỏi còn lại là màu đen, như vậy mặc nhiên viên sỏi cô gái đã chọn phải là màu trắng. Và khi đó, tên trưởng giả không thể nào thừa nhận sự ăn gian của mình và buộc phải xóa nợ cho gia đình người nông dân một cách vô điều kiện như đã hứa. Cô gái đã rất thông minh và linh hoạt xoay chuyển tình huống éo le, biến nó thành lợi thế của mình.

Câu chuyện kể trên cho thấy rằng, hầu hết các vấn đề phức tạp trong cuộc sống hay công việc hàng ngày đều có thể giải quyết bằng một giải pháp đơn giản, chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ và cách tiếp cận vấn đề mà thôi!