Home Blog Page 486

Hành trình sống

Cuộc sống là một hành trình vừa động vừa tĩnh, mang nhiều sắc màu, nhiều tiết tấu. Bắt đầu cuộc đời từ khi hình thành sự sống trong lòng Mẹ, và ngày Mẹ khai hoa nở nhụy là lúc Mẹ sinh ra ta, Mẹ vui vì bắt đầu mùa Xuân của con, nhưng có khi Mẹ cũng quan ngại hoặc lo buồn vì những mùa khác của con… Vâng, hành trình cuộc sống không hề đơn giản!
Đức Khổng Tử xác định: “Đời người cần có 5 đức: Ôn, Lương, Cần, Kiệm, Chính”.
Sống là đấu tranh, là vươn lên không ngừng, dù sống ở cương vị nào cũng vậy. Mỗi người là một cá thể riêng biệt nhưng vẫn hài hòa trong một tổng thể.
ÔN – “Ôn” là ấm, nghĩa là ôn hòa chứ không cực đoan. Không ôn hòa, người ta sẽ thiên lệch, buông thả hoặc cuồng nhiệt. Người Việt có câu: “Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương chỉ tổ cho người ta ghét”. Ôn ở đây là một động thái dứt khoát và nghiêm túc, không khô khan, không nửa vời, không tiêu cực, nếu là người có tôn giáo thì không cuồng tín.
LƯƠNG – “Lương” là tốt lành, chân thật. Con người vốn dĩ có xu hướng vị kỷ, do vậy mà luôn phải nỗ lực sống tốt hơn. Leo dốc thì rất khó, thả dốc thì rất dễ. Sống tốt không chỉ là tránh điều ác (tiêu cực) mà còn phải hăng say làm điều thiện (tích cực).
CẦN – “Cần” là siêng năng, chịu khó. Tinh thần thì linh hoạt nhưng thân xác luôn nặng nề. Có những điều mình muốn thì mình không làm, mà điều mình không muốn thì mình lại làm. Con người là vậy, rất yếu đuối, mâu thuẫn với cả chính mình.
KIỆM – “Kiệm” là tiết kiệm, không hoang phí. Kiệm ở đây không giới hạn theo nghĩa vật chất mà còn bao hàm các nghĩa khác, nghĩa là không hoang phí thời gian cho các hoạt động vô bổ, không hoang phí ánh mắt, không hoang phí lời nói, không hoang phí thái độ, không hoang phí tình cảm,… Cuộc sống luôn phải chừng mực. St. Francois de Sale so sánh: “Ít nói không là nói ít, mà là không nói những điều vô ích”.
CHÍNH – “Chính” là ngay thẳng, đứng đắn. Người ta chân chính nhờ khiêm nhường và tuân phục. Người ít nói hoặc ít cười chưa hẳn là người nghiêm trang và đứng đắn. Không thành kiến với người khác cũng là động thái ngay thẳng, sống nghiêm túc. Phải có tình yêu thương thực sự mới khả dĩ “vui với người vui, buồn với người buồn”.
Đời người như viên đá cuội lăn mòn trên những con dốc đời, rồi một ngày nằm chết lẻ loi bên vệ đường mà vẫn trăn trở không nguôi, vì bao mơ ước chưa trọn vẹn! Khi tư tưởng chín muồi thì thân xác bắt đầu rã rời… Đó là một nghịch lý, nhưng là nghịch-lý-thuận. Cũng có thể đó là sự nghiệt ngã của cuộc đời. Cũng là con người, nhưng có người sung sướng từ trong trứng nước, có người lại đau khổ và thiếu thốn suốt cuộc đời, không chút thanh thản.
Làm sao hiểu được triết lý cuộc sống? Nhà soạn nhạc thiên tài Beethoven nói: “Cảm ơn Tạo Hóa, tôi viết được nhạc, còn ngoài ra tôi chẳng làm được gì”. Đại văn hào Shakespeare nói: “Có người sinh ra được sự nổi tiếng rơi vào mình, có người tìm mãi cũng thấy, nhưng có người tìm cả đời cũng không thấy”.
Thật bí ẩn, con người không thể hiểu thấu! Hát Xẩm (Việt Nam) có câu: “Một đời đánh phấn đeo hoa, một đời khổ ải cũng qua một đời”. Vậy đó!
Thánh Catarina khuyên: “Cuộc đời là chiếc cầu, hãy đi qua chứ đừng dừng lại trên đó”. Giá trị cuộc đời không được đo bằng “chiều dài” mà đo bằng “chiều sâu”. Và nhà toán học Pythagore (Pythagóras ho Sámios) đã cảnh báo: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”.
Kha Đông Anh

CẦU NGUYỆN: MỘT CHIA SẺ QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA

Ông Jim Johnson được giao cho việc cứu nguy một khách sạn đang trên đà suy sụp. Các người quản lý trước ông đã cố gắng nhiều nhưng không thành công. Khách sạn này đang trong tình trạng thập tử nhất sinh. Ông Jim quyết định thử thi hành một kiểu cách thật khác biệt.

Hằng đêm ông lái xe lên một ngọn đồi nhìn về thành phố và khách sạn. Ông dừng xe và ngồi ở đó trong 20 phút, để cầu nguyện.

Ông cầu nguyện cho các thân chủ của khách sạn, họ đang nghỉ ngơi đằng sau các khung cửa sổ đèn sáng. Ông cầu nguyện cho nhân viên của khách sạn và gia đình của họ. Ông cầu nguyện cho những người có giao dịch làm ăn với khách sạn. Sau cùng, ông cầu nguyện cho thành phố và dân cư.

Đêm này sang đêm khác, ông lái xe lên đỉnh đồi. Và đêm này sang đêm nọ, ông dừng xe và kiên trì cầu nguyện như vậy.

Chẳng bao lâu, tình hình khách sạn thay đổi, từ từ khá hơn. Các nhân viên cảm thấy vững tin hơn. Họ chào đón khách niềm nở hơn. Một tinh thần mới thấm nhập vào kiểu cách điều hành. Khách sạn như tái sinh một cách rõ ràng.

Ông Norman Vincent Peale, người kể câu chuyện này, đã cho rằng sự tái sinh của khách sạn là nhờ lời cầu nguyện hằng đêm của ông Jim Johnson. Ông chấm dứt câu chuyện với một tư tưởng thật hấp dẫn: Nếu lời cầu nguyện của một người có thể thay đổi được một khách sạn, thì rất có thể lời cầu nguyện của một quốc gia thay đổi cả thế giới.

Câu chuyện có thật đó đã nói lên tinh thần của bài Phúc Âm hôm nay. Nó cũng đưa ra vài vấn đề:

Sự cầu nguyện chiếm một vị trí nào trong đời sống chúng ta? Phúc Âm nói gì về sự cầu nguyện? Chúa Giêsu nói gì về sự cầu nguyện?

Trong Phúc Âm, chúng ta thấy diễn tả bốn loại cầu nguyện: thờ phượng, thống hối, cảm tạ; và cầu xin.

Trong sự cầu nguyện thờ phượng, chúng ta nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa chúng ta. Thí dụ, trong Phúc Âm Gioan, chúng ta thấy Thánh Tôma quỳ xuống và tuyên xưng Đức Giêsu: “Ôi lạy Chúa và Thiên Chúa của con!” (Gioan 20:28).

Trong sự cầu nguyện thống hối, chúng ta thú nhận mình là ai: là những người tội lỗi cần đến lòng thương xót của Chúa.

Trong sự cầu nguyện cảm tạ, chúng ta nhìn nhận những ơn lành mà Chúa đã ban cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta thấy chính Đức Giêsu cầu nguyện, “Lạy Cha, là Chúa trời đất! Con cảm tạ Cha…” (Luca 10:21).

Sau cùng, trong sự cầu nguyện nài xin, chúng ta nhìn nhận là cần được Chúa giúp đỡ. Vì vậy, chúng ta thấy Đức Giêsu dạy các môn đệ, “Hãy xin, và anh em sẽ nhận; hãy tìm, và anh em sẽ thấy; hãy gõ, và cửa sẽ mở ra cho anh em” (Luca:9).

Thật có ý nghĩa khi các môn đệ xin Đức Giêsu dạy họ cách cầu nguyện, Người đã dạy họ kinh Lạy Cha.

Lời kinh này bao gồm bốn loại cầu nguyện nói trên.

Chúng ta tôn thờ Chúa khi đọc, “Lạy Cha chúng con ở trên trời; chúng con nguyện danh Cha cả sáng…”

Chúng ta bày tỏ lòng thống hối khi đọc, “Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”

Nhưng lạ một điều là Kinh Lạy Cha không có câu cám ơn Chúa rõ ràng. Các học giả giải thích rằng người Do Thái coi lời tôn thờ cũng như lời cảm tạ.

Họ lý luận rằng khi chúng ta tôn thờ Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận Người là ai, và những gì Người đã thi hành cho chúng ta. Tiềm ẩn trong sự nhìn nhận này là sự biết ơn chúng ta đối với Người vì những gì Người đã ban và vì Người là Thiên Chúa.

Sau cùng, sự nài van là xin Thiên Chúa những gì chúng ta cần. Vì vậy chúng ta đọc trong kinh Lạy Cha, “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.”

Có người hỏi, “Khi xin Chúa điều này điều nọ, hay xin Người làm điều này điều nọ, có phải chúng ta thuyết phục Người thay đổi hoạch định về những điều nào đó không?”

Câu trả lời hiển nhiên là không. Thiên Chúa không cần đến sự khôn ngoan của loài người để dẫn dắt Người. Chúa cũng không cần đến loài người phải thuyết phục Người thi hành những gì tốt lành và chính trực.

Vậy tại sao chúng ta cầu xin?

Ông Blaise Pascal, nhà toán học lừng danh của thế kỷ 17, đã trả lời câu hỏi ấy như sau: “Cầu nguyện là một trong các phương cách mà Thiên Chúa đã chọn để chia sẻ quyền năng vô cùng của Người cho chúng ta.”

Cũng như ơn hiểu biết của Thiên Chúa ban cho loài người chúng ta sức mạnh, thì lời cầu xin với Người cũng ban cho chúng ta quyền năng.

Nói cách khác, Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ trong một phương cách mà chúng ta có thể ảnh hưởng đến nó, không chỉ bởi việc sử dụng trí khôn con người nhưng còn bởi lời cầu nguyện của con người.

Không phải ai ai cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động của con người bằng trí khôn của họ. Nhưng bất cứ ai-dù ngu dốt đến đâu-cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động của con người bằng sức mạnh của sự cầu nguyện mà Thiên Chúa đã chia sẻ với chúng ta.

Thiên Chúa dựng nên chúng ta không như các khán giả chỉ nhìn ngắm công trình tạo dựng của Người. Chúa ban cho chúng ta được chia sẻ công trình ấy. Đây là một phần của ý nghĩa được dựng nên trong “hình ảnh và giống như” Thiên Chúa.

Bác sĩ Alexis Carrel, người đoạt giải Nobel, đã tóm lược sức mạnh và vai trò của sự cầu nguyện như sau:

“Cầu nguyện là một hoạt động trưởng thành rất cần thiết cho sự phát triển toàn vẹn của một con người. Chỉ trong sự cầu nguyện chúng ta mới đạt được một tổng thể đầy đủ và hài hòa gồm thân xác, tâm trí và linh hồn nhằm đem lại sức mạnh kiên quyết cho loài người yếu đuối như cây sậy.”

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu xin Chúa Giêsu:

Xin tiếng nói của Chúa Giêsu kêu gọi chúng con
khi chúng con lầm đường lạc lối.

Xin đôi mắt của Chúa Giêsu nhìn đến chúng con
khi chúng con cần được khích lệ.

Xin khuôn mặt của Chúa Giêsu mỉm cười với chúng con
khi chúng con cần được tự tin.

Xin đôi tay của Chúa Giêsu xức dầu cho chúng con
khi chúng con mệt mỏi.

Xin cánh tay của Chúa Giêsu nâng chúng con lên
khi chúng con gục ngã.

Xin máu thánh Chúa Giêsu tẩy sạch chúng con
khi chúng con lớn lên trong bùn lầy.

Xin thân thể Chúa Giêsu nuôi dưỡng chúng con
khi chúng con đói khát.

Xin thánh tâm Chúa Giêsu giúp chúng con yêu thương nhau
như Ngài đã yêu thương chúng con.

KHIÊM HẠ ĐỂ ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để cho dân dễ hiểu. Ta thấy Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn qua các lời rao giảng của Ngài để nói về Nước Trời. Nước Trời là một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được.

Mầu nhiệm Nước Trời thì cao siêu sâu thẳm, vì vậy Chúa phải dùng những ví dụ, những hình ảnh quen thuộc trong đời thường của người dân lúc đó như cây nho ai cũng thấy, như hạt lúa ai cũng hay, như mẻ cá ai cũng rõ, như đàn chiên ai cũng tỏ, như đám cưới ai cũng có thể tường và cảm được vv… để diễn tả những mặt của mầu nhiệm Nước Trời.Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”.

Các dụ ngôn của Chúa Giêsu cũng phải được giải thích và Chúa lại chỉ giải thích cho các môn đệ, nhóm người bé nhỏ. Còn đối với dân thì cứ để họ không hiểu.

Chúa Giêsu là người Israel, sống tại Israel, giảng đạo tại Israel. Đức Mẹ, thánh Giuse, các tông đồ đều là người Israel, vậy mà cho đến hôm nay họ vẫn quyết liệt từ chối Chúa Giêsu và Hội thánh của Người. Hình như “không tin,” “cứng lòng” là định mệnh của họ. Số của họ là vậy.

Ta còn nhớ trong Thánh Vịnh :

Ôi Dân Ta mà chẳng nghe lời,

Israel nào đâu có chịu,

thì Ta đành mặc họ lòng chai dạ đá,

muốn đi đâu thì cứ việc đi. (Tv 80)

Những người cứng tin phải có trách nhiệm gì không trong việc cứng tin của họ. Thánh Phaolô trong Rm 11,25 đã hé cho ta thấy kế hoạch của Thiên Chúa: Sau khi chư dân đã tin, thì tất cả Israel cũng được ơn cứu độ. Việc Israel cứng tin chỉ là sự kích thích cho dân ngoại (dân không phải Do thái) tin vào. Và khi nói đến đó thánh Phaolô đã ca tụng sự khôn ngoan vô lường của Thiên Chúa và ý định của Người. Ôi sâu thẳm muôn trùng – sự khôn ngoan thông minh của Thiên Chúa. Ý định Người không ai dò thấu. Đường lối Người không sức dõi theo.

Khi Chúa Giêsu ở một mình, nhiều người thân cận vây quanh cùng với nhóm Mười Hai bắt đầu hỏi về các dụ ngôn. Ngài nói với họ: “Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ”. Sau đó Ngài nói: “Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn?” (Mc 4,10-12)

Các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu vì các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe”.

Khi nói như thế, Chúa Giêsu muốn mặc khải rằng: Nước Trời chỉ dành cho những người đơn sơ, chân thành và yêu mến. Vì họ là những người bé mọn, đơn thành nên đã có thì lại được đầy dư. Còn kẻ không có nghĩa là không tin như Kinh sư và Pharisêu, thì những cái đang có tức lòng tin truyền thống của họ cũng sẽ bị lấy đi, và mọi việc họ làm đều trở nên vô ích.

Thái độ đón nhận Lời Chúa của Biệt Phát và Luật Sĩ không bao giờ và không thể nhận ra Lời Chúa như là vị mật ngọt ngào hay như dòng suối mát cho tâm hồn. Trong thực tế, ta thấy nực cười bởi họ coi Lời Chúa như một cái gì đó khó ưa, khó dùng, khiến tâm hồn không thể đón nhận, chỉ “vì lòng dân này đã ra chai đá”, nên không còn có chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.

Với nhiều người ngày nay, có lẽ đức tin không đến nỗi quá cứng lòng như những Kinh sư và Pharisêu! Nhưng con người đang rơi vào tình trạng thờ ơ, dửng dưng, vô cảm với chính Lời Chúa và những nghĩa vụ liên quan đến đức ái qua anh chị em đồng loại. Đây có lẽ là điều nguy hiểm không nhỏ đến ơn cứu độ, bởi vì có thể nói: đây là căn bệnh “ung thư” thời đại mới nơi tâm hồn rất nhiều người.

Biết Chúa, được nghe Lời Chúa chính là một hồng ân. Bởi lẽ không phải ai cũng được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, được hưởng kho tàng ân sủng được Thiên Chúa thông ban qua Hội Thánh. Thế giới ngày nay lên đến hơn 7 tỉ người, nhưng không phải ai cũng là người Kitô hữu.

Lời Chúa một lần nữa cho chúng ta thấy con người chúng ta cần đến ân sủng để có thể hiểu biết được những mầu nhiệm cao cả từ trời, Chúa sẵn sàng mặc khải, hướng dẫn cho những kẻ bé mọn luôn biết đón nhận Lời Ngài trong sự khiêm hạ.

Và như vậy, ta cầu xin Chúa ban ơn giúp chúng ta không ngừng trau dồi, học hỏi về Lời Chúa và kết hiệp với Ngài trong cuộc sống để nhận được sự chúc phúc từ Thiên Chúa.

HÃY SINH HOA KẾT QUẢ NHƯ LÒNG CHÚA MONG MUỐN

 

Dụ ngôn là một hình thức giảng dạy dùng ví du từ phong tục trong dân chúng hay cuộc sống thường nhật để rút ra bài học, hay làm sáng tỏ một chân lý đạo đức hoặc tôn giáo. Có tất cả là bảy dụ ngôn được tác giả xếp lại với nhau và hôm nay chúng ta suy niệm dụ ngôn về người gieo giống. Dụ ngôn này dài và gồm có ba phần. Phần thứ nhất Chúa Giêsu công bố dụ ngôn người gieo giống. Phần thứ hai Chúa Giêsu giải thích thêm tại sao Ngài dùng dụ ngôn mà giảng dạy. Và phần thứ ba Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của dụ ngôn cho các môn đệ.

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về Nước Trời, để giác ngộ người Do Thái khỏi lầm lẫm về Nước Trời mà Ngài thiết lập không theo kiểu trần thế như họ tưởng nghĩ và mong muốn. Dụ ngôn người gieo giống cũng thuộc nhóm dụ ngôn liên hệ về Nước Trời như các dụ ngôn.

Ta cùng nhau suy niệm ý nghĩa chung của dụ ngôn. Chúa Giêsu dạy cho các đồ đệ của Ngài ngày xưa và cho chúng ta hôm nay một bài học về tinh thần lạc quan trong đời sống đức tin. Cuối cùng, ơn Chúa sẽ thắng, Lời Chúa sẽ được đón nhận và sinh hoa kết quả tốt đẹp. Những hoa trái đó có thể bù cho những thiệt mất trong thời gian chờ đợi chiến thắng cuối cùng và vĩnh viễn của Lời Chúa và ân sủng cứu rỗi của Ngài.

Chúa Giêsu thường giảng bằng dụ ngôn (Mt 13, 34). Với các môn đệ, Ngài nói rõ sự thật, với người ngay lành, Ngài dùng dụ ngôn làm cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ các chân lý Ngài trình bày, và khám phá dần dần sự phong phú chứa đựng trong chân lý ấy. Với người không tiếp nhận thì chân lý không tỏ ra cho họ, và nếu lời giảng nhắm thẳng vào người nghe thì lời nói không làm cho họ quá đột ngột hay khó chịu, như khi Chúa muốn nói về nhóm Biệt Phái Luật sĩ.

Hàng Tư tế Do Thái tìm đủ mọi cách để loại trừ Chúa khi Chúa dùng dụ ngôn các tá điền làm vườn nho để đến mùa nộp huê lợi cho chủ. Còn nữa, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để thực hiện những lời tiên tri báo trước về việc dùng dụ ngôn: “mở miệng ra tôi sẽ nói dụ ngôn công bố điều huyền bí thuở xa xưa” (Tv 78, 2 ).

Trang Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống đi gieo giống lúa tại Galilêa thời Chúa Giêsu: Galilêa là một xứ nhỏ, nhiều đồi núi, ít ruộng đất, đông dân cư, nên ruộng đất phải chia nát ra thành nhiều phần nhỏ, phần đất nào cũng có đường bờ làm cương giới. Phần nhiều đất không đủ màu mỡ, có nhiều chỗ pha trộn đá sỏi, đất đã xấu lại hỗn độn đầy cỏ, nhất là cỏ gai.

Tuy nhiên cũng có nhiều chỗ đất phì nhiêu, người ta chỉ cày bừa kỹ rồi gieo vãi đợi đến mùa là gặt lúa về. Hiểu như thế giúp chúng ta dễ dàng hiểu lời Chúa hôm nay.

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về người gieo giống: người gieo giống trước tiên chính là Thiên Chúa, hạt giống là Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian để cứu chuộc thế gian, đất được gieo là nhân loại, đất khác nhau vì thái độ đón nhận khác nhau của từng người. Đồng thời người gieo giống là Chúa Giêsu, và tiếp tục là Giáo Hội qua muôn thế hệ, hạt giống là lời Chúa, đất được gieo là toàn thể nhân loại nói chung, và từng người nói riêng, đất khác nhau là thái độ đón nhận của người nghe khác nhau. Khi dùng những hình ảnh quen thuộc với thính giả Galilêa, Chúa Giêsu trình bày số phận của hạt giống tuỳ theo vùng đất tiếp nhận nó, đất sỏi, bụi gai, vệ đường, lại thêm những chướng ngại bên ngoài như chim trời, nắng gắt, nhưng có hạt rơi nhằm đất tốt thì sinh hoa kết quả nhiều, hạt được gấp trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi.

Lời Chúa được giảng dạy cũng vậy, nó phát sinh hiệu quả cho người nghe tuỳ theo thái độ đón nhận của họ, và tuỳ thuộc vào cách họ sống. Chúa Giêsu đưa ra bốn loại: vệ đường, đá sỏi, bụi gai và đất tốt. Chỉ có đất tốt mới có hiệu lực sinh hoa kết quả. Xét về hình thức thì việc rao giảng thất bại vì chỉ thành công với tỉ lệ ¼ nhưng về tính chất thì loại đất thứ tư lại gấp bội ba mươi, sáu mươi, một trăm, có nghĩa là hạt giống lời Chúa luôn là tốt có một tiềm năng hiệu lực, lúc đầu xem ra thất bại nhưng cuối cùng là vào ngày cánh chung sẽ thành công vì Nước Chúa sẽ trị đến. Hạt ba mươi, hạt sáu mươi, hạt một trăm trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu không áp đặt mà chỉ đề nghị và mời gọi mọi người hiểu được thái độ cần phải có để đón nghe lời Chúa cho sinh kết quả phần rỗi linh hồn mà tạo cho tâm hồn nên một mảnh đất tốt.

Bài học về tinh thần lạc quan tin tưởng này được giãi bày trong bốn dụ ngôn về hạt giống, về hạt cải, về men trong bột và về hạt giống tự động mọc lên. Ở những câu đầu công bố dụ ngôn (Mt 13,1-9) chúng ta thấy yếu tố chính mà tác giả Tin Mừng thánh Mátthêu muốn chúng ta lưu ý đến không phải là mảnh đất, không phải là người gieo giống mà là chính hạt giống.

Dẫu rằng bị mất mát, bị thiệt thòi vì những hoàn cảnh môi trường khác nhau, nhưng có hạt giống trổ sinh được hoa trái.

Sau này, khi giải thích về dụ ngôn cho các môn đệ, yếu tố chính không còn là hạt giống nữa mà là các loại đất khác nhau đón nhận hạt giống. Các loại đất tốt xấu là những trạng thái tâm hồn con người đón nhận hạt giống Lời Chúa.

Ngày hôm nay ta dừng lại một chút để chiêm ngắm hạt giống trổ sinh hoa trái. Chúng ta hãy tin tưởng vào sức mạnh của Lời Chúa, không ngã lòng thất vọng trước những nghịch cảnh, những môi trường không thuận lợi cho Lời Chúa. Những người Do Thái chống đối khước từ Chúa đã không làm hư chương trình cứu rỗi của Ngài. Thực tế ngày nay có quá nhiều hoàn cảnh đối nghịch với Lời Chúa nhưng chắc chắn sẽ không diệt bỏ được sức mạnh trổ sinh hoa trái của Lời Chúa.

Ta cần nhận thức giá trị thiêng liêng của lời Chúa mà tha thiết lắng nghe và chăm chú thi hành, chúng ta cần có tinh thần khao khát lời Chúa như một nhu cầu của sự sống, cần gạt bỏ những chướng ngại, nhất là các thành kiến, khuynh hướng xấu trong tâm hồn chúng ta, chúng ta cần từ bỏ những sự lo lắng ham mê những sự thế gian xác thịt để có một tâm hồn thanh thoát, trong sạch đón nhận lời Chúa.

Với tất cả những điều đó, ta cần tu luyện cho có một tâm hồn khiêm nhường biết tin tưởng cậy trông, và yêu mến lời Chúa để cho lời Chúa biến đổi đời sống chúng ta, dẫn đưa chúng ta đến ơn cứu độ, đến sự sống đời đời. Từ đó chúng ta trở nên một tông đồ đem lời Chúa đến cho mọi người cách hăng say nhiệt thành vì phần rỗi của mọi anh em của ta.

 

Tiếng gọi

Tiếng gọi tạo mối tương quan giữa người gọi và người được gọi. Khi cất tiếng gọi một người, là ta muốn người ấy đang ở xa nay trở lại gần. Lời gọi thường nêu đích danh một người cụ thể, tức là nhằm tới chính bản thân của người đó. Tiếng gọi nào cũng mong một lời đáp. Có những tiếng gọi đem lại cho ta niềm vui và hạnh phúc, nhưng cũng có những tiếng gọi đưa ta vào mê hồn trận để rồi ta lạc bước và chìm đắm trong vũng lầy. Con người sống trong xã hội như đứng trước ngã ba đường, cần biết phân định tiếng gọi nào là chân thực, rồi chọn cho mình một hướng đi có tính quyết định cho cuộc đời.

Thiên Chúa Quan Phòng đặt để trong mỗi con người tiếng nói của lương tâm. Đây là mực thước và tiêu chuẩn đạo đức cho mọi nền văn hoá, mọi thời đại. Lương tâm luôn kêu gọi con người làm việc thiện. Khi lỡ làm điều xấu, lương tâm lên tiếng phê phán trách móc và canh chừng để người phạm lỗi biết dừng lại và sám hối. Người có lương tâm ngay chính luôn tôn trọng sự thật, cảm thấy áy náy khi trót làm điều khuất tất. Lương tâm là tiếng gọi tự bên trong mỗi người. Lương tâm cũng là một vị thẩm phán công minh, giúp con người hồi tỉnh và sửa chữa lỗi lầm. Công đồng Vaticanô II đã định nghĩa về lương tâm như sau: “Lương tâm là nơi thẳm sâu thầm kín, là cung thánh của lòng người, nơi đây chỉ còn một mình con người với Thiên Chúa, Đấng đang lên tiếng trong thâm tâm con người. Bằng một cách thế diệu kỳ, lương tâm giúp con người nhận biết lề luật ấy, lề luật được kiện toàn bởi tình mến Chúa yêu người” (Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 16). Do bị tác động bởi những nguyên nhân khách quan hay chủ quan, nên có khi người ta phán đoán sai lầm. Vì vậy, lương tâm cũng cần được huấn luyện để trở nên ngay chính và chân thật.

Thánh Kinh, Cựu ước cũng như Tân ước, ghi lại nhiều tiếng gọi. Đó là lời mời gọi của Chúa. Qua tiếng gọi này, Chúa muốn cho con người cộng tác với Ngài để san sẻ hạnh phúc của Ngài cho đồng loại. Từ cậu bé Samuel trong đền thờ Silô đến các vị thủ lãnh và ngôn sứ như Môisen, Isaia, Giêrêmia, Amos… Lời mời gọi nào cũng là những lời thân thương trìu mến. Thiên Chúa tôn trọng con người. Ngài muốn họ đáp lại lời mời gọi của Ngài với sự tự do, không bị ép buộc. Ngài ngỏ lời với họ như với những người bạn, để tỏ cho họ biết ý định của Ngài là muốn cứu độ con người. Ngài cũng gọi đích danh mỗi người với tên của họ “Ta đã gọi con bằng chính tên con. Con là của riêng Ta” (Is 43,1). Các ngôn sứ trong Cựu ước đã đáp lại tiếng Chúa gọi, mặc dù trong số đó, có những vị nhận mình là “thân phận tội lỗi bất xứng” (trường hợp Isaia), hoặc “không biết ăn nói làm sao” (trường hợp Giêrêmia), hay thú nhận mình chỉ là một người chăn chiên, không thuộc về dòng dõi ngôn sứ (trường hợp Amos). Một khi chấp nhận tiếng gọi của Chúa, chính Ngài sẽ soi sáng hướng dẫn cho các ông, để các ông có đủ can đảm loan báo những gì Chúa truyền cho các ông nói, kể cả khi đối diện với bạo lực cường quyền.

Trong Tân ước, Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi con người cộng tác để thực hiện chương trình cứu rỗi nhân loại. Hầu hết những người được gọi đều sẵn sàng tuân theo ý Chúa. Đó là trường họp Đức Trinh nữ Maria thành Nagiarét. Đó cũng là trường hợp những người dân chài bên biển hồ Galilêa. Nhờ lời thưa “Xin vâng”, Trinh nữ Maria đã trở thành thân mẫu của Đấng Cứu thế. Nhờ sự sẵn sàng từ bỏ, những người dân chài đã trở thành môn đệ của Chúa, và sau này họ đã làm thay đổi bộ mặt thế giới. Tiếng gọi của Chúa đã làm thay đổi cuộc đời của những người đã một thời lầm lỗi (trường hợp thánh nữ Mađalêna) hay một nghề nghiệp bị nhiều người người kỳ thị (trường hợp thánh Matthêu). Tiếng gọi ấy còn hoán cải và thay đổi lòng người, biến một kẻ tàn sát các tín hữu thành vị Tông đồ dân ngoại (trường hợp thánh Phaolô).

Tiếng gọi của Chúa có sức thuyết phục diệu kỳ. Trong suốt bề dày của lịch sử Giáo Hội, biết bao người đã can đảm lên đường theo tiếng gọi của Chúa, bỏ lại sau lưng nhà cửa, quê hương và người thân thuộc. Họ là những thừa sai can đảm và dứt khoát lên đường đến những vùng xa xôi để loan báo tình thương của Thiên Chúa. Khi đón nhận tiếng gọi của Chúa, họ cảm nhận rõ Đấng Vô Hình đang hiện diện trong cuộc đời. Tiếng gọi của Chúa còn ban sức mạnh cho các chứng nhân tử đạo, ban niềm vui cho người sống bậc đan tu, ban nghị lực cho người quảng đại dấn thân phục vụ người bất hạnh… Tất cả đều được tiếng gọi yêu thương của Chúa nâng đỡ.

Ngày hôm nay, Chúa vẫn đang cất tiếng gọi mỗi người chúng ta “Hãy theo Thày” (Mc 1,17). Theo Chúa là ơn gọi của người Kitô hữu. Hành trình theo Chúa là một hành trình liên lỉ, lâu dài và chấp nhận nhiều gian khó. “Ai theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Từ bỏ và vác thập giá là cách diễn tả những hy sinh mà những người theo Chúa phải chấp nhận nếu muốn nên trọn lành. Một cuộc sống buông thả dễ dãi không phù hợp với tính cách của người môn đệ Đức Kitô.

Tiếng gọi của Chúa cũng được thể hiện qua những người cha mẹ và những nhà giáo dục. Họ là những người thay mặt Chúa để hướng dẫn chúng ta nên người. Nhờ gương sáng và lời dạy bảo của những bậc cha mẹ và các thày cô giáo, chúng ta trở nên người tốt và có ích lợi cho gia đình cũng như xã hội. Người biết lắng nghe và cảm nhận còn có thể nhận ra tiếng gọi của Chúa qua các biến cố xảy đến trong cuộc đời. Những biến cố vui buồn đều mang một thông điệp nếu chúng ta nhìn bằng con mắt đức tin. Những biến cố xảy đến, có thể là lời cảnh báo, nhắc nhở để chúng ta biết canh chừng và nhắc chúng ta biết quan tâm đến nhau.

Trong cuộc sống quay cuồng bởi biết bao cám dỗ tham vọng, có những tiếng gọi làm cho con người lạc hướng. Tiếng gọi này đồng nghĩa với cám dỗ và nó mang một hấp lực rất mạnh mẽ. Đôi khi nó núp dưới những ngôn từ đẹp đẽ ấn tượng, hoặc nhân danh những chủ đích cao cả, nhưng thực ra chúng là những cái bẫy nguy hiểm. Những đam mê tiền bạc, danh vọng và lạc thú có thể làm con người quên hết mọi sự và trở nên u mê tăm tối. Trước những cám dỗ này, người ta như con thiêu thân lao vào đốm lửa và tự thiêu đốt chính bản thân mình. Trong cơn u mê, người ta giống như những con bạc, càng say càng khát, mất hết lý trí và càng ngày càng trượt sâu trong con dốc sa đoạ, đánh mất chính mình trong những trò đen đỏ. Có những người hoang phí đời mình trong truỵ lạc, đến khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn màng, như bị chiếc lưới mạng nhện phong toả, không còn lối thoát.

Sống theo lương tâm ngay thẳng và thành tâm tìm kiếm ý Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ thanh thản an vui. Hãy nhận ra tiếng gọi của Chúa nơi sâu thẳm của tâm hồn, để chúng ta đi theo Ngài đến bến bờ của hạnh phúc.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Những việc chuẩn bị về nghi lễ và giáo lý của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Krakow

Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Krakow chú trọng nhiều tới khía cạnh thiêng liêng, nhưng không quên khía cạnh làm thế nào để lôi cuốn tuổi trẻ đi vào nét huyền nhiệm của nó, vốn là chủ điểm của mọi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, theo viễn kiến của người sáng lập ra nó, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

 

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cử hành các Thánh Lễ với các yếu tố của phụng vụ Chính Thống Đông Phương

 

Khía cạnh huyền nhiệm ấy được Nghi Trưởng Các Cử Hành Phụng Vụ của Đức Giáo Hoàng, Đức Ông Guido Marini, nhấn mạnh. Thực vậy, nhân chuyến viếng Krakow tuần này, ngài nói với các ký giả tại Trung Tâm Báo Chí của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới rằng các Thánh Lễ có sự tham dự của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới sẽ bao gồm nhiều yếu tố của phụng vụ Chính Thống.

 

Trong khi lưu lại Ba Lan, Đức Ông Marini đã thăm Công Viên Blonie và Khuôn Viên Thương Xót ở Brzegi gần Wieliczka. Ngài nói chuyện với Ủy Ban Tổ Chức về các vấn đề liên quan tới việc sắp xếp âm nhạc và phụng vụ trong Thánh Lễ do Đức Giáo Hoàng Phanxicô cử hành. Đức Ông nói rằng vì Đức Giáo Hoàng Phanxicô không nói tiếng Ba Lan, nên đã có quyết định là các thánh lễ sẽ được cử hành bằng tiếng La Tinh, và Đức Giáo Hoàng sẽ giảng bằng tiếng Ý. Sẽ có phiên dịch cho các khách hành hương.

 

Khi được hỏi về chủ đề của các cử hành phụng vụ khác nhau, Đức Ông Marini nói rằng “Chắc chắn, mỗi ngày sẽ có đặc điểm riêng của nó, tùy theo Đức Giáo Hoàng gặp nhóm nào hay những người nào vào hôm đó, nhưng chắc chắn chủ đề chính của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, tức lòng thương xót của Thiên Chúa, sẽ nổi bật trong mỗi cuộc gặp gỡ này”.

 

Đức Ông Marini nói với các nhà báo rằng: “Một số yếu tố của phụng vụ Chính Thống Đông Phương sẽ được lồng vào. Điều này đã được thỏa thuận với các vị có trách nhiệm về phụng vụ tại Ba Lan, hầu đánh dấu sự hiện diện của truyền thống Đông Phương tại các khu vực này”.

 

Dorota Abdelmoula, phát ngôn viên của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, thì cho biết: “Trước mỗi buổi tụ họp phụng vụ, Đức Thánh Cha muốn được lái xe đưa đi giữa các khu vực để có dịp gặp gỡ các tín hữu một cách thân mật, và chúng tôi phải bảo đảm sao cho mọi sự đều theo khung thời gian, để các biến cố không quá dài cho cả Đức Thánh Cha lẫn khách hành hương”.

 

Mỗi buổi phụng vụ của Đức Giáo Hoàng sẽ kéo dài chừng 1 tiếng rưỡi đồng hồ.

 

Tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, Tin Mừng sẽ được đọc bằng tiếng cổ của Giáo Hội Slav

 

Cha Grzegorz Nazar nói với Thông Tấn Xã Ba Lan rằng: “Trong ba biến cố chính của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, Tin Mừng sẽ được đọc bằng tiếng Ba Lan và tiếng cổ của Giáo Hội Slav. Đây là cách nhấn mạnh tới tầm quan trọng của các Giáo Hội Đông Phương tại Âu Châu”.

 

Tiếng cổ của Giáo Hội Slav sẽ được dùng trong nghi lễ khai mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, trong nghi thức chào đón Đức Giáo Hoàng và trong nghi thức sai đi tại Khuôn Viên Thương Xót ở Brzegi.

 

Cha Nazar, người có nhiệm vụ liên lạc với các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương trong Ủy Ban Tổ Chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, nói với Thông Tấn Xã Ba Lan rằng: “Mục đích là để biểu lộ sự phân bố rộng lớn của Giáo Hội Công Giáo tại Âu Châu”.

 

Trong khuôn khổ Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội Công Giáo Rôma và 23 Giáo Hội Đông Phương điều hành dưới thẩm quyền tối cao của Đức Giáo Hoàng. Hai mươi ba Giáo Hội Đông Phương này được chia thành 5 truyền thống, trong đó có truyền thống Byzantine, là truyền thống chung nhất tại Âu Châu. Các Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp cũng thuộc truyền thống vừa kể.

 

Cha Nazar giải thích: “mọi quốc gia nói tiếng Slav trung thành với truyền thống Byzantine đều sử dụng tiếng cổ của Giáo Hội Slav trong phụng vụ của họ”.

 

Các Giáo Hội Công Giáo theo nghi lễ Đông Phương khác với Giáo Hội Công Giáo Rôma ở phụng vụ, lịch, luật lệ, số các ngày ăn chay, nhưng không khác về tín lý hoặc bí tích.

 

Các bản văn Tin Mừng, được đọc tại Công Viên Blonia và tại Khuôn Viên Thương Xót, là các bản dịch trung thành từ tiếng Ba Lan sang tiếng cổ của Giáo Hội Slav. Vào các ngày 26 và 31 tháng Bẩy, các bản văn này sẽ được các phó tế đọc, trong khi vào ngày 28 tháng Bẩy, chúng được một linh mục đọc. Các bài đọc sẽ được bắt đầu và kết thúc với các ca khúc của Ca Đoàn Mikhail Werbycki đến từ Przemysl.
Phụng vụ của Giáo Hội Byzantine vốn có đặc điểm huyền nhiệm, năng động hơn và được cộng đoàn tham dự cách tích cực, dấn thân nhiều vào việc cảm nghiệm điều được cử hành. Các vị cử hành phụng vụ không tĩnh tụ, các ngài đến trước bình phong ngăn cung thánh (iconostasis) nhiều lần trong lúc cử hành. Nghi lễ Byzantine không dùng chữ Thánh Lễ, mà dùng chữ phụng vụ (tiếng Hy Lạp là leiturgia có nghĩa “việc chung”).

 

Theo Cha Nazar, không phải là chuyện tình cờ khi bao gồm một số phần phụng vụ bằng tiếng cổ của Giáo Hội Slav vào các cử hành của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới. Ngài nói: “Đức Giáo Hoàng tới Ba Lan, một nước nằm gần các lãnh thổ mà các tông đồ của người Slav, là hai thánh Cyril và Mehtodius, đã hoạt động nhiều thế kỷ trước. Tôi nghĩ chủ ý là giúp người ta lưu ý. Đây là một cách lôi cuốn giới trẻ, những người luôn muốn được biết phụng vụ đông phương”.

 

Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới: Các Buổi Giáo Lý

 

Các trải nghiệm của người trẻ tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới để lại nơi họ một ấn tượng sâu sắc và lâu dài và cũng là một xúc tác và thúc đẩy để họ thực hiện các dấn thân và sáng kiến mới mẻ. Họ trải nghiệm những gì trong những ngày Đại Hội? Họ gặp gỡ những ai? Các yếu tố chính của những ngày Đại Hội đã góp phần lớn lao vào thừa tác mục vụ hữu hiệu cho người trẻ và với người trẻ. Các yếu tố này: Chúa Kitô, Sách Thánh, giáo lý, các bí tích (nhất là Hòa Giải và Thánh Thể), việc đạo đức, việc sùng kính, Thánh Giá Đại Hội, các thánh, cùng với các thời khắc hành hương, Lễ Hội Tuổi Trẻ, các dự án phục vụ xã hội, ơn gọi, hy vọng sẽ tìm được vị trí trung tâm trong các cố gắng mục vụ của chúng ta với người trẻ.

 

Một thành quả rất tích cực của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là chủ đề Sách Thánh dành cho mỗi biến cố. Chủ đề của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 31 tại Krakow năm 2016 là “Ai có lòng thương xót ấy là phúc thật, vì họ sẽ được thương xót” (Mt 5:7).

 

Trong các Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lớn có tính quốc tế ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, hàng trăm các vị giám mục và Hồng Y cũng tham dự trong tư cách giáo lý viên. Mỗi ngày trong tuần Đại Hội, hàng ngàn người trẻ tụ tập quanh các vị giám mục và Hồng Y của họ để nghe các bài giảng dậy, “các bài giáo lý”, các bài suy niệm dựa trên Lời Thiên Chúa. Phát minh mới mẻ này đã nhận được đời sống riêng của nó và trở thành một phần nội tại trong các cử hành đức tin và văn hóa tuổi trẻ quốc tế.

 

Sau đây là một cái nhìn khái quát về cách chủ đề của việc cử hành quốc tế năm nay tại Krakow sẽ được khai triển ra sao trong các bài giáo lý hàng ngày hoặc trong các bài giảng dậy của các vị giám mục thế giới được chọn làm giáo lý viên. Bài giáo lý thường được giảng bằng tiếng mẹ đẻ của vị giám mục. Mỗi 3 bài giáo lý sẽ được trình bầy tại một địa điểm khác nhau.

 

Bài giáo lý các ngày 27, 28 và 29 tháng Bẩy sẽ được trình bầy bằng các ngôn ngữ khác nhau cho các người trẻ có mặt tại Krakow. Khoảng 3 trăm vị giám mục khắp thế giới sẽ là các giáo lý viên. Mỗi vị giám mục giáo lý viên sẽ trình bầy 3 bài giáo lý trên các chủ đề liệt kê sau đây. Đại Hộichia sẻ chúng ở đây không phải chỉ cho các người tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Krakow mà còn cho nhiều nhóm không thể đến Ba Lan được và sẽ cử hành Các Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại quê nhà, tụ họp quanh các vị giám mục và mục tử của họ.

 

Thứ Tư, ngày 27 tháng Bẩy – Bài giáo lý thứ nhất
Đề tài: Nay là thời thương xót!

 

Tập chú vào đoạn trong Bài Giảng của Đức Giáo Hoàng khi đọc Kinh Chiều Thứ Nhất của Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, 11 tháng Tư năm 2015.

 

“Nhiều người tự hỏi trong tâm hồn: tại sao ngày nay mà còn cần Năm Thánh Thương Xót? Đơn giản chỉ vì trong thời buổi thay đổi lớn lao có tính lịch sử này, Giáo Hội được kêu gọi phải cung cấp nhiều dấu chỉ hữu hiệu hơn cho thấy Thiên Chúa hiện hữu và gần gũi ta. Đây là thời để Giáo Hội khám phá lại ý nghĩa của sứ mệnh mà Chúa của mình đã ủy thác cho mình vào ngày Phục Sinh: trở thành dấu chỉ và dụng cụ của lòng thương xót của Chúa Cha (xem Ga 20:21-23). Một năm trong đó để Chúa Giêsu đánh động và được lòng thương xót của Người biến cải, hầu trở nên các nhân chứng của lòng thương xót?” (Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Bài Giảng khi đọc Kinh Chiều Thứ Nhất Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, 11 tháng Tư năm 2015).

 

Thứ Năm, ngày 28 tháng Bẩy – Bài Giáo Lý thứ hai
Đề tài: Chúng ta hãy để lòng thương xót của Chúa Kitô đánh động

 

Tập chú vào đoạn trong Sứ Điệp của Đức Giáo Hoàng gửi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2016.

 

“Các con, các thanh nam thanh nữ thân yêu, các con có bao giờ cảm nhận được cái nhìn yêu thương hoài hoài trên các con, một cái nhìn quá bên kia các tội lỗi, các giới hạn và các sai phạm của các con, và vẫn cứ tin tưởng ở các con và hy vọng trông mong ở đời các con chưa? Các con có nhận ra rằng các con qúy báu dường bao đối với Thiên Chúa, Đấng đã ban cho các con mọi sự chỉ vì yêu các con không?” (Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sứ Điệp gửi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2016).

 

Thứ Sáu, ngày 29 tháng Bẩy – Bài Giáo Lý thứ ba
Đề tài: Lạy Chúa, xin Chúa làm cho con trở thành khí cụ của lòng Chúa thương xót!

 

Tập chú vào một số đoạn trích từ Nhật Ký của Thánh Nữ Faustina Kowalska.

 

“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để mắt con biết thương xót, ngõ hầu con không bao giờ nghi ngờ hay phán đoán từ dáng vẻ bề ngoài, nhưng tìm kiếm những gì đẹp đẽ trong linh hồn các người lân cận của con và chạy tới cứu giúp họ.

 

“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để tai con biết thương xót, ngõ hầu con có thể lưu ý tới nhu cầu của các người lân cận của con và đừng dửng dưng trước các nỗi đau và buồn thảm của họ.

 

“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để lưỡi con biết thương xót ngõ hầu con không bao giờ nói tiêu cực về các người lân cận của con, nhưng có lời an ủi và tha thứ mọi người.

 

“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để tay con biết thương xót và đầy những việc làm tốt lành.
“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để chân con biết thương xót, ngõ hầu con mau mắn giúp đỡ người lân cận của con, thắng vượt sự mệt mỏi và kiệt sức của riêng con.

 

“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con, để trái tim con biết thương xót ngõ hầu con biết cảm nhận mọi đau khổ của người lân cận của con (Nhật Ký Thánh Nữ Faustina Kowalska, 163).

 

Các vị giám mục được khích lệ giảng những bài dậy ứng khẩu, trình bầy các điển hình và những giai thoại có ý nghĩa. Người trẻ đánh giá cao các câu trả lời đơn sơ nhưng có thế giá cho các câu hỏi của họ. Vì thế, các vị giám mục được mạnh mẽ khích lệ đem các câu truyện và các chứng tá riêng của các ngài vào bài giáo lý, và trình bầy với giới trẻ các điển hình mẫu gương tích cực (hạnh các thánh; các “người hùng” trẻ tuổi như Chân Phúc Pier Giorgio Frassati và Chân Phúc Chiara Luce Badano; các thánh bổn mạng của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2016: Thánh Gioan Phaolô II và Thánh Nữ Faustina).

 

Các giám mục giáo lý viên được yêu cầu khai triển đề tài hàng ngày để nói vào khoảng 20 phút. Sau đó dành thì giờ thoả đáng để người trẻ đặt câu hỏi và vị giám mục trả lời. Mỗi ngày, bài giáo lý sẽ kết thúc với Thánh Lễ do vị giám mục giáo lý viên chủ tế; ngài sẽ giảng một bài giảng ngắn.

 

Trong các ngày có giáo lý, mọi nhóm giới trẻ sẽ được lần lượt mời tham dự Cuộc Hành Hương Thương Xót từ Đền Thánh Gioan Phaolô II tới Đền Thánh Chúa Thương xót.

TOÀ THÁNH TỐ GIÁC TÌNH TRẠNG VI PHẠM NHÂN QUYỀN TRẦM TRỌNG TRÊN THÊ GIỚI

ĐTGM Bernardito Auza, quan sát viên thường trực của Toà Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc bên New York, mạnh mẽ tố cáo tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng trên thế giới.

Phát biểu trong phiên họp thảo luận về nhân quyền hôm 13 tháng 7 vừa qua ĐTGM Auza đã ca ngợi các nỗ lực và thành qủa Liên HIệp Quốc đã đạt đưọc kể từ khi thành lập cách đây 70 năm, và kể từ khi Bản tuyên ngôn nhân quyền ra đời cách đây 50 năm. Tuyên ngôn này là lời nhắc nhở muôn đời nhân bản tính và tình liên đới của gia đình nhân loại. Nó là gia tài cao quý cần phải tôn trọng, tuân hành và là kim chỉ nam cho cung cách hành xử của các câ nhân, xã hội và quốc gia. Nhưng rất tiếc trong thời đại nhiều biến động ngày nay, người ta đang chứng kiến cảnh các quyền con người bị khước từ, huỷ bỏ và vi phạm trong nhiều cách thế trên thế giới: thường dân bị sát hại trong chiến tranh và các xung đột vũ trang, con người bị bán như nô lệ của lao công, tính dục, lấy cơ phận, các nhóm chủng tộc và tôn giáo thiểu số bị bách hại hay tiêu diệt, con người bị coi như vô dụng hay không được ưóc muốn nên bị gạt bỏ, hàng triệu người phải chạy trốn vì bị bách hại hay vì qúa nghèo túng, biết bao nhiêu người là nạn nhân của kỳ thị. Những người bị bỏ rơi đàng sau hay bị thiệt thòi ấy chứng minh cho thấy sự thất bại trong việc trân trọng phẩm giá của họ.

Phẩm giá con người bắt nguồn từ chính bản chất nhân loại của từng người và là một quyền bẩm sinh ngày từ lúc mới được thụ thai. Nó không phải là một chính phục khi con người đạt được chiều kích thể lý nào đó, hay sự khéo léo tâm thần hay tuổi tác, cũng không phải là một loại ân huê đưọc nhà nuớc ban cho hay lấy đi như chuyện chính trị. Các quyền con người là bất khả xâm phạm, phải được tôn trọng và thăng tiến một cách đại đồng. Việc thực thi các quyền con người có trách nhiệm cũng bao gồm các bổn phận tương xứng. Bổn phận và trách nhiệm phải được áp dụng trên bình diện cuộc sống cá nhân cũng như trong tương quan của quyền bính dân sự, lập pháp, tư pháp với các công dân và cơ cấu xã hội dân sự và các nhóm. Mục đích của Liên Hiệp Quốc là thăng tiến và bảo vệ các quyền con người, đặc biệt của những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất. Do đó, cần tiếp tục thăng tiến và củng cố nền văn hóa tôn trọng các quyền con nguời và tạo điều kiện cho các thề hệ tương lại tiếp nhận, che chở, quý mên và phát huy nhân quyền (SD 15-7-2016).

Thứ tư tuần 16 Thường Niên

 

Ca Nhập Lễ

Này con được Thiên Chúa phù trì. Thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ. Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế. Lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo.

Lời Nguyện Nhập Lễ

Lạy Chúa, xin tỏ lòng nhân hậu với các tín hữu Chúa và rộng tay ban phát mọi ơn lành để chúng con thêm lòng tin cậy mến và chuyên cần tuân giữ những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin…

 

BÀI ÐỌC I: Gr 1, 1. 4-10

“Ta đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc”.

Khởi đầu sách Tiên tri Giêrêmia.

Lời của Giêrêmia, con trai của Helcia, thuộc gia tộc tư tế định cư ở Anathoth, thuộc lãnh thổ Bengiamin. Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc”. Và tôi đã thưa lại: “A, a, lạy Chúa là Thiên Chúa, con đâu có biết ăn nói, vì con còn con nít”. Nhưng Chúa phán cùng tôi rằng: “Ngươi đừng nói: Con là con nít, vì ngươi sẽ đi đến với những kẻ Ta sẽ sai ngươi đi; ngươi sẽ nói mọi điều Ta sẽ truyền dạy ngươi nói. Ngươi đừng sợ họ, vì Ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi”. Chúa phán như thế. Và Chúa giơ tay sờ miệng tôi mà nói với tôi rằng: “Ðây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Ðây hôm nay Ta ban quyền cho ngươi trên các dân tộc và trên các vương quốc, để ngươi lật đổ và đập phá, phân tán và tiêu diệt, xây dựng và vun trồng”.

Ðó là lời Chúa.

ÐÁP CA: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17

Ðáp: Lạy Chúa, miệng con sẽ kể ra ơn Ngài giúp đỡ (x. c. 15).

1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời. Theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu.

2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến lũy vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá tảng, là chiến lũy của con. Lạy Chúa con, xin cứu con khỏi tay đứa ác.

3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa; lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con.

4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể những sự lạ của Ngài.

ALLELUIA: Ga 14, 23

All. All. – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – All.

PHÚC ÂM: Mt 13, 1-9

“Nó sinh hoa kết quả gấp trăm”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói: “Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên nó khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt được sáu mươi, hạt ba mươi. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe”.

Ðó là lời Chúa.

 

Lời Nguyện Tiến Lễ

Lạy Chúa là Cha nhân từ, Chúa đã dùng hiến tế duy nhất của Đức Kitô trên thập giá làm cho các hy lễ theo luật Môsê được đầy đủ ý nghĩa. Xin thánh hóa lễ vật chúng con dâng với cả tấm lòng thành, cũng như xưa Chúa đã vui lòng thánh hóa lễ vật của Aben. Nhờ đó, hiến lễ mỗi người chúng con dâng lên để tôn vinh Danh Thánh sẽ giúp mọi người đạt tới ơn cứu độ. Chúng con cầu xin…

Kinh Tiền Tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Vì thế, cùng với ca đoàn các Thiên thần, chúng con ca ngợi Chúa và hân hoan tuyên xưng rằng: Thánh! Thánh! Thánh!

Ca Hiệp Lễ

Chúa đã truyền tưởng niệm những kỳ công của Người. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Ai kính sợ Người, Người ban phát của ăn.

Lời Nguyện Hiệp Lễ

Lạy Chúa, xin phù trợ chúng con là đoàn dân Chúa. Chúa đã lấy bánh bởi trời mà nuôi dưỡng chúng con; xin cũng giúp chúng con từ bỏ nếp sống cũ và hân hoan bước vào đời sống mới. Chúng con cầu xin…

 

ĐTC mời giới trẻ đến gặp gỡ Chúa Giêsu

ĐTC Phanxicô kêu gọi các bạn trẻ Hoa Kỳ đừng sợ hãi đến gặp gỡ Chúa Giêsu,vì Chúa chờ đợi họ để trao ban an bình cho họ.

ĐTC đã đưa ra lời mời gọi trên đây trong sứ điệp Video gửi cho họ. Các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ đại kết “Cùng nhau 2016” , do phong trào cầu nguyện và loan báo Tin Mừng “Pulse” tổ chức tại Washington ngày 16 tháng 7 vừa qua. Đây là tổ chức do ông Nick Hall thành lập nhằm giúp người trẻ sống đức tin kitô.

ĐTC nói trong sứ điệp: “Cha biết các con có trong tim sự lo lắng băn khoăn. Một người trẻ không băn khoăn là một ông già. Các con đến Washington để tham dự cuộc gặp gỡ và để gặp gỡ một Người có thể trao ban cho các con một câu trả lời cho sự khắc khoải của các con. Hãy chắc chắn đi,

cha bảo đảm với con là con sẽ không cảm thấy mình bị vỡ mộng. Thiên Chúa không làm cho ai thất vọng cả. Chúa Giêsu chờ đợi con, chính Ngài đã gieo vào lòng con các hạt giống của sự băn khoăn ấy. Can đảm lên! Hãy đến gặp Chúa rồi nói cho cha biết. Hãy thử đi, con chẳng mất mát gì đâu” (SD 18-6-2016)

Bạn có thấy điều gì từ trời trên tấm hình này?

Bạn có thấy điều gì từ trời trên tấm hình này?

 

Gần đây trên các trang mạng xã hội luân lưu một bức hình lạ lùng, bức hình không qua chỉnh sửa, đó là bức hình lễ rửa tội của một em bé mà giòng nước linh mục xối trên đầu em khi rơi xuống có hình tràng chuỗi mân côi.
Bức hình này do bà Raquel Gatti chụp, bà là người Argentina và đầu tháng 6 vừa qua bà đã dự buổi tiếp kiến chung của Đức Phanxicô ở Quảng trường Thánh Phêrô và bà đã nhờ Cận vệ Thụy Sĩ trao lại cho ngài. «Tôi nghĩ Chúa muốn tôi tiếp tục chụp hình; tôi rất xúc động khi lần đầu tiên nhìn bức hình. Dù tôi không được tự tay đưa cho Đức Giáo hoàng nhưng tôi biết ngài đã làm phép, và giữ bức hình», bà vui mừng cho biết trong cuộc phỏng vấn với hãng tin ACI Prensa.

 

Em bé sơ sinh tên là Bernabé, em được linh mục Martín Aversario thuộc giáo xứ Đức Bà Bác Ái, tiểu bang Tucumán, Argentina rửa tội. Bà giải thích, «để tôi không bị cho là thiếu khách quan, tôi đã gởi bức hình cho mẹ của em bé để hỏi bà xem, khi bà nhìn bức hình này, bà có thấy như tôi thấy không, bà xác nhận đã thấy như tôi thấy.»

 

«Tôi đã khóc vì xúc động»

 

Còn về phần Evelyn, mẹ của em bé Bernabé, bà cho hãng tin ACI biết, lần đầu tiên bà nhìn tấm hình, bà tưởng «linh mục đang cầm tràng chuỗi trong tay», sau đó bà nhận ra đây là phản ảnh của giòng nước rửa tội. Bà thú nhận mình «đã khóc vì xúc động», vì thêm một lần nữa, Chúa lại chứng tỏ Ngài hiện diện trong gia đình bà.

 

Bà Evelyn giải thích bà bị bệnh gọi là «hội chứng chống-phospholipide, một loại chất béo» (SAPL), đặc biệt của hội chứng này là nó tạo những cục máu ở mạch máu làm cho máu luân lưu khó, trong khi mang thai, máu khó luân lưu đến cuống rún. «Guadalupe, con gái đầu tiên của tôi bị bệnh nặng hai tháng đầu tiên, cháu phải chuyền máu và phải thở oxy, nhưng nhờ ơn Chúa, tình trạng của cháu được khá. Chúng tôi không bao giờ ngừng lần hạt trong gia đình».

 

Bức hình được Đức Giáo hoàng làm phép

 

Mẹ của em bé Barnabé tin chắc bức hình «là dấu cho gia đình bà biết Chúa hạnh phúc» với họ và nói họ tiếp tục «rao giảng Tin Mừng qua tràng chuỗi và qua câu chuyện này». Bà nói thêm: «Được Đức Giáo hoàng làm phép và nhận tấm hình là cả một phép lạ cho gia đình chúng tôi, một cái gì như chạm được trời một chút qua bàn tay mình. Chúng tôi  không bao giờ nghi ngờ Chúa và Đức Mẹ cùng đi với chúng tôi trong từng bước chúng tôi đi», bà khẳng định.

 

Đây là lần thứ nhì một sự kiện như vậy xảy đến với nhiếp ảnh gia Rachel Gatti trong lễ rửa tội. Cách đây hai năm, lần trước là hình bồ câu trắng trong nước, bà kể. «Tôi gọi đó là «Deusidência», các tình cờ của Chúa. Bởi vì theo ý nghĩa thiêng liêng của việc này là tôi ở đúng lúc, đúng chỗ mà tôi phải đứng và với đủ ánh sáng. Rất nhiều sự trùng hợp để chụp được tấm hình như vậy…», bà Raquel cho biết.