Home Blog Page 487

Công Bằng

Công bình là công bằng hoặc công lý. Thánh Thomas Quinô (linh mục tiến sĩ) mô tả sự công bình là một nhân đức mà chúng ta thực hiện cho nhau. Nói cách khác, mọi người đều có quyền không thể chuyển nhượng vì họ được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Công bằng liên quan việc tôn trọng quyền của người khác về tôn giáo, xã hội, chính trị, và kinh tế. Đây là 20 cách bạn có thể “làm điều đúng”, thể hiện sự công bàng:

1. Phát triển các năng khiếu Thiên Chúa ban cho bạn và sử dụng các năng khiếu đó để làm lợi cho người khác.

2. Luôn chân thật.

3. Luôn nói thật.

4. Tuân giữ các luật pháp, kể cả luật về việc sử dụng rượu bia và tốc độ đi xe.

5. Tôn trọng mọi người – nam, phụ, lão, ấu, sang, hèn.

6. Không tán gẫu, không nói hành, không nói xấu người khác.

7. Tôn trọng tài sản của người khác.

8. Làm việc chăm chỉ xứng với tiền lương.

9. Hãy kiến tạo hòa bình.

10. Không có thành kiến với bất cứ ai.

11. Quan tâm người nghèo bằng cách hạn chế chi tiêu để chia sẻ với người nghèo.

12. Không lãng phí thực phẩm.

13. Tham gia các hoạt động chung ở trường học, giáo xứ, hội đoàn, làng xóm, khu phố,…

14. Ăn chay để cảm thông với những người thiếu ăn.

15. Tình nguyện làm việc từ thiện.

16. Tình nguyện giúp đỡ viện dưỡng lão, viện cô nhi.

17. Phân phối đồ dư một cách hợp lý, và có trách nhiệm giữ vệ sinh công cộng.

18. Cầu nguyện cho hòa bình.

19. Tìm hiẻu công việc liên quan công bằng xã hội (chẳng hạn như chính trị địa phương, công việc xã hội,…). Điều này có thể liên quan tìm hiểu công việc của những người hoạt động vì công bằng xã hội (chẳng hạn như Thánh Vinh Sơn Phaolô, bà Dorothy Day).

20. Biết thông tin về một trong các vấn đề lớn liên quan xã hội. Các vấn đề quan trọng như chiến tranh, phá thai, nạn đói, ô nhiễm môi trường, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính. Hãy viết thư gởi báo chí để phản ánh những vấn đề “nổi cộm” ngày nay.

Tục ngữ Ả Rập có câu: “Một giờ sống công bình đáng giá cả trăm lời cầu nguyện”. Các triết gia đã xác định công bình là “thực hiện sự thật”. Người công bình là người sống chân thật và đúng đắn, luôn làm những điều đúng!

ĐTC GỬI ĐIỆN TÍN CHIA BUỒN VỀ TAI NẠN XE LỬA VÙNG PUGLIA, NAM ITALIA

ĐTC đã gửi điện tín chia buồn với các nạn nhân và gia đình họ vì tại nạn hai xe lửa đụng nhau trên tuyến đường Corato-Andria vùng Puglia, nam Italia, sáng ngày 12 tháng 7 vừa qua.

Điện tín gửi ĐC Francesco Cacucci, TGM Bari-Bitonto do ĐHY Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Toà Thánh ký, viết: “Nghe tin tại nạn hoả xa trầm trọng  xảy ra trên tuyến đường Corato-Andria khiến cho nhiều người thiệt mạng và bị thương, ĐTC chân thành bầy tỏ sự chia sẻ nỗi đau buồn của biết bao gia đình. Ngài bảo đảm sốt sắng cầu nguyện cho những người đã chết một cách thê thảm, và trong khi khẩn cầu Chúa cho những người bị thương mau bình phục, ĐTC tín thác cho sự chở che hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria những người đang chịu tang tóc thê thảm này và gửi đến cho họ phép lành Toà Thánh của Ngài.”

Lúc sau 11 giờ sáng ngày 12-7  hai chuyến xe lửa chạy ngược chiều trên tuyến đường Corato-Andria đã đâm thẳng đầu vào nhau khiến cho mấy toa tầu bị tan nát và đổ nghiêng. Các toán cứu trợ đã làm việc suốt đêm để tìm xác các nạn nhân. Tính cho đến nay đã có 27 người bị chết và hơn 50 người bị thương, nhiều người rất nặng, nhưng vẫn có người còn bị kẹt trong các toa tầu bẹp giúm. Thủ tướng Renzi và bộ trưởng lưu thông Italia đã đến tận nơi để uỷ lạo và quan sát tình hình. Chính quyền đã ra lệnh điều tra vụ này. Tại một vài vùng Italia vẫn còn có các tuyến đường xe lửa hai chiều, di chuyển trên cùng một đường rầy duy nhất và được hướng dẫn bằng điện thoại thay vì bằng các kỹ thuật tự động tối tân (SD 12-7-2016).

ĐTC BẤT THÌNH LÌNH THĂM ỦY BAN TOÀ THÁNH ĐẶC TRÁCH VỀ CHÂU MỸ LATINH

 

Sáng ngày 13 tháng 7 ĐTC Phanxicô đã bất thình lình đến thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh, trước sự ngạc nhiên vui sướng của các nhân viên.

Ngài đến gõ cửa văn phòng của Ủy ban trong khi các nhân viên đang họp để bàn về việc cử hành Năm Thánh Lòng  Thương Xót tại Bogotà thủ đô Colombia. Trước sự ngạc nhiên của các nhân viên ĐTC nói: “Tôi muốn nhảy sang thăm anh chị em một lát”. Với thái độ đơn sơ và thân tình ĐTC xin được họp chung với mọi người. Sau đó một nhân viên đã báo cho ông Guzman Cariquiry thư ký Ủy ban biết, và ông đã vội vàng đón tiếp ĐTC. Ngài hỏi ông: “Anh có giờ nói chuyện một chút không?” Và ĐTC đã chuyện vãn với ông nửa giờ đồng hồ, chào và hỏi chuyện từng nhân viên hiện diện và chụp hình lưu niệm. Ngài nhắc lại các chuyến viếng thăm Ủy ban khi còn là TGM Buenos Aires.

Trong khi ĐTC nói chuyện với vị phó chủ tịch Ủy ban, một trong các nhân viên an ninh Vaticăng đã trả lời các câu hỏi tò mò của các nhân viên Ủy ban. Ông cho biết sau khi khám răng tại văn phòng sức khoẻ trong Vaticăng ĐTC tỏ ý muốn ghé thăm Ủy ban đặc trách về Châu Mỹ Latinh. Mặc dù nhân viên an ninh cho ngài biết các thủ tục an ninh phức tạp ĐTC nói: “Anh đừng có lo, chúng ta ở trong tay Chúa mà”. Và thế là xe chở ngài tới thăm Ủy ban (SD 13-7-2016).

Các giám mục Hoa Kỳ đề nghị Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật bảo vệ quyền tự do của những người không chấp nhận “hôn nhân đồng tính”

 

Ngày 12-07-2016, bày tỏ sự ủng hộ Dự luật Bảo vệ Tu chính án thứ nhất, Đức Tổng giám mục Salvatore J. Cordileone (Tổng giáo phận San Francisco), Chủ tịch Tiểu ban Cổ vũ và Bảo vệ Hôn nhân trực thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, và Đức Tổng giám mục William E. Lori (Tổng giáo phận Baltimore), Chủ tịch Uỷ ban đặc biệt về Tự do Tôn giáo, đã ra tuyên bố sau:

*

“Hôm nay Uỷ ban Giám sát và Cải tổ Chính quyền của Hạ viện sẽ nghe điều trần về Dự luật Bảo vệ Tu chính án thứ Nhất (FADA). Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ từng lên tiếng ủng hộ luật này, vì luật mang lại phương cách bảo vệ quyền tự do tôn giáo ở cấp liên bang. FADA tuy là một bước đi khiêm tốn nhưng quan trọng trong việc bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo được bảo vệ về lương tâm và mọi người có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng cho rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, đều được chính quyền liên bang bảo vệ không bị phân biệt đối xử. Tình trạng ngày càng gia tăng thái độ bất khoan dung đối với niềm tin tôn giáo và niềm tin vào ý nghĩa vợ chồng của hôn nhân khiến cho việc bảo vệ này trở nên cần thiết đối với việc duy trì các hoạt động bác ái của tôn giáo, những hoạt động này trợ giúp cho nền công ích của đất nước chúng ta. Không được tước giấy phép hoặc bằng chứng nhận của những cơ quan và trường học tôn giáo chỉ vì họ bảo lưu quan điểm hữu lý về hôn nhân khác với quan điểm của chính quyền liên bang.

Định nghĩa hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ đã được khắp nơi duy trì bao đời nay, chẳng có gì là thiếu tôn trọng người khác, cũng chẳng lệ thuộc vào niềm tin tôn giáo, trái lại, dựa trên những sự thật về con người có thể dùng lý trí nhận thức được. Trung thành với cam kết phục vụ những lợi ích tốt đẹp nhất của xã hội, Giáo hội Công giáo sẽ tiếp tục cổ vũ và bảo vệ sự thật về hôn nhân, nền tảng đối với công ích. Giáo hội sẽ tiếp tục bênh vực mọi người được thực hành niềm tin tôn giáo và những xác tín về luân lý của mình trong đời sống công cộng mà không chút sợ hãi, đồng thời làm chứng cho sự thật.

Chúng tôi ủng hộ Dự luật Bảo vệ Tu chính án thứ Nhất và đề nghị Quốc hội thông qua đạo luật quan trọng này”.

Những câu hỏi thông thường về Tông huấn Amoris Laetitia

  1. Tông huấn là gì?

Tông huấn là một bài huấn dụ đặc biệt của Đức giáo hoàng nhằm truyền đạt nhận định của ngài về một vấn đề nào đó. Đức giáo hoàng thường dùng Tông huấn để công bố những kết luận ngài có được sau khi xem xét những khuyến cáo của một Thượng Hội đồng Giám mục. Ngài cũng có thể dùng Tông huấn để khuyến dụ các tín hữu tiến sâu hơn vào đời sống làm môn đệ Chúa Kitô, chẳng hạn như Đức giáo hoàng Phanxicô đã dùng Tông huấn Evangelii Gaudium để công bố Tin Mừng trong thế giới ngày nay (24-11-2013).

  1. Tông huấn Amoris Laetitia do đâu mà có?

Amoris Laetitia là kết quả của những suy tư trong cầu nguyện của Đức giáo hoàng Phanxicô về những cuộc thảo luận và những kết quả của hai Thượng Hội đồng Giám mục tổ chức tại Roma: một Thượng Hội đồng Ngoại thường năm 2014, và một Thượng Hội đồng Thường lệ năm 2015, cả hai đều có chủ đề về hôn nhân và gia đình. Tông huấn này muốn chia sẻ với toàn thể Hội Thánh giáo huấn và khuyến dụ của ngài về công tác mục vụ gia đình, và về những gì hôn nhân và gia đình được mời gọi trong thời điểm này của lịch sử.

  1. Thượng Hội đồng Giám mục là gì?

Thượng Hội đồng Giám mục là một định chế thường trực của Hội thánh Công giáo, được Chân phúc Giáo hoàng Phaolô VI thiết lập năm 1965, không lâu sau khi bế mạc Công đồng Vatican II, để tiếp nối tinh thần của giám mục đoàn và sự hiệp thông đã có được tại Công đồng Vatican II. Thượng Hội đồng là một đại hội các giám mục trên toàn thế giới nhằm tham vấn cho Đức giáo hoàng về những vấn đề quan trọng Hội thánh đang trực diện bằng cách bảo vệ huấn giáo của Hội thánh và củng cố kỷ luật trong Hội thánh (xem website của Tòa thánh và Giáo luật, khoản 342).

  1. Tông huấn Amoris Laetitia đề cập những vấn đề nào?

Amoris Laetitia đề cập đến rất nhiều vấn đề liên quan đến hôn nhân và đời sống gia đình, và chú trọng đặc biệt vào ơn gọi và sứ mệnh tình yêu của gia đình. Tông huấn nói về những sức mạnh và những ân huệ của gia đình, và những thách thức hiện thời các gia đình trên khắp thế giới đang phải đối mặt. Tông huấn khuyến khích các đôi vợ chồng, các gia đình, và các tác viên mục vụ hãy đồng hành và chăm lo cho các gia đình và những ai đang cần được Chúa thương xót và chữa lành. Điều này đòi hỏi ta phải biết suy nghĩ sâu xa về tình yêu và những gì tình yêu bao hàm trong thực tại hằng ngày của hôn nhân và đời sống gia đình.

  1. Tên của Tông huấn này nghĩa là gì ?

Amoris Laetitia là từ ngữ la tinh hàm nghĩa “Niềm Vui của Tình Yêu”. Câu mở đầu nói: “Niềm Vui của Tình Yêu các gia đình trải nghiệm được cũng chính là niềm vui của Hội thánh” (s.1). Tông huấn muốn làm vọng lại xác tín của các Nghị phụ Thượng Hội đồng rằng gia đình Kitô hữu “quả thực là tin tốt lành” (s.1) và muốn giúp Hội thánh gần gũi với các gia đình trong mọi hoàn cảnh.

  1. Ai nên đọc Tông huấn này?

Văn kiện này dành cho tất cả những ai quan tâm đến tương lai của gia đình. Tông huấn ngỏ lời với các giám mục, linh mục, phó tế, những người được thánh hiến, các đôi vợ chồng Kitô hữu và tất cả các Kitô hữu giáo dân. Cách riêng, các đôi vợ chồng được nhắc nhở về ơn gọi và sứ mệnh của mình qua Tông huấn này, và các gia đình có thể thấy Tông huấn này là nguồn cảm hứng liên tục.

  1. Những nhà lãnh đạo Công giáo có thể sử dụng Tông huấn này như thế nào?

Amoris Laetitia sẽ là một kim chỉ nam giá trị cho tất cả những ai dấn thân vào tác vụ giúp các bạn trẻ phân định và chuẩn bị hôn nhân cũng như những đôi vợ chồng và các gia đình ở mọi giai đoạn của đời sống. Các vị lãnh đạo Công giáo cần phải dành mọi nỗ lực để nghiên cứu trọn vẹn Tông huấn này. Nhất là cần chú ý xem những nhận định sâu sắc của Đức giáo hoàng đã có thể làm cho tác vụ đặc thù này trở nên phong phú và sống động ra sao. Chính Đức giáo hoàng Phanxicô đã ân cần mời gọi chúng ta đọc tông huấn này một cách kiên nhẫn và cẩn thận, với hy vọng “khi đọc văn kiện này, tất cả sẽ cảm nhận mình được mời gọi biết yêu mến và quý trọng đời sống gia đình…” (s.7).

  1. Đức giáo hoàng Phanxicô bộc lộ mối quan tâm của ngài đối với các gia đình như thế nào trong triều đại của ngài?

Đức giáo hoàng Phanxicô đã tỏ lòng yêu mến đối với hôn nhân và các gia đình bằng nhiều cách. Ngay trong năm đầu tiên của triều đại giáo hoàng của ngài, ngài đã triệu tập hai khóa họp khoáng đại Thượng Hội đồng Giám mục liên tiếp về gia đình. Ngài đã dành các buổi tiếp kiến hằng tuần suốt hơn một năm để ban những huấn dụ về các chủ đề liên quan đến hôn nhân và gia đình, và ngài đã nêu lên những chứng từ sôi nổi hấp dẫn về vẻ đẹp trong kế hoạch của Thiên Chúa về gia đình trong kỳ Đại hội Thế giới các Gia đình tại Philadelphia. Ngài cũng tôn phong Đức Gioan Phaolô II – mà ngài xưng tụng là “vị giáo hoàng của gia đình” lên bậc hiển thánh.

  1. Còn những văn kiện chủ yếu nào khác nữa của Hội thánh về hôn nhân và gia đình?

Như Đức giáo hoàng Phanxicô đã trình bày trong chương ba, Amoris Laetitia khai triển tiếp theo một kho tàng giáo huấn phong phú của Hội thánh về hôn nhân và gia đình. Tông huấn này là một văn kiện song hành và bổ túc cho văn kiện Familiaris Consortio (Về Vai trò của Gia đình Kitô hữu trong Thế giới Ngày nay), do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành sau Thượng Hội đồng Giám mục về gia đình họp trong năm 1980, đã là viên đá thử vàng cho mục vụ chăm sóc hôn nhân và đời sống gia đình từ khi được phổ biến. Đức Gioan Phaolô II còn cống hiến cho Hội thánh một văn kiện khác nữa cho các gia đình trong năm 1994, tên là “Thư gửi các Gia đình”, và các bài giáo lý của ngài về tình yêu con người, thường được gọi là “thần học thân xác”, cũng đã làm cho việc chiêm nghiệm của Hội thánh về hôn nhân và đời sống gia đình ngày nay được trở nên thực sự phong phú. Tất cả những công trình này được trích dẫn ở nhiều điểm khác nhau trong Amoris Laetitia. Những văn kiện then chốt khác, cũng đã được trích dẫn, bao gồm cả Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes của Công đồng Vatican II (Về Hội thánh trong Thế giới Ngày nay), Thông điệp Humanae Vitae (Về Sự Sống Con Người) của Chân phúc Giáo hoàng Phaolô VI, và Thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình yêu) của Đức nguyên giáo hoàng Bênêđictô XVI.

  1. Làm thế nào để tôi có được bản Tông huấn Amoris Laetitia?

Có thể liên hệ mua Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm Vui của Tình Yêu, bản dịch tiếng Việt do Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam thực hiện và xuất bản tại Văn phòng HĐGM số 72/12 Trần Quốc Toản Q.3 Tp. HCM, kể từ ngày 20 tháng 7 năm 2016. Cũng có thể tìm đọc toàn văn Tông huấn này sẽ được đăng tải trên trang mạng của HĐGM Việt Nam. Bản tiếng Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha… của Tông huấn Amoris Laetitia có thể tham khảo trên trang mạng của Toà Thánh: www.vatican.va.

Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm vào Quốc vụ viện Truyền thông

 

Ngày 13 tháng Bảy 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm các thành viên cho Quốc vụ viện Truyền thông – đã được ngài thành lập ngày 27-06-2015.

Trong số các thành viên mới, có Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám mục giáo phận Mỹ Tho;

Các thành viên khác:

– Đức hồng y Bechara Boutros Rai (Thượng phụ Công giáo Antiokia, Liban – nghi lễ Maronite);

– Đức hồng y John Njue, Tổng giám mục Nairobi, Kenya;

– Đức hồng y Chibly Langlios, Giám mục Les Cayes, Haiti;

– Đức hồng y Charles Maung Bo, Tổng giám mục Yangon, Myanmar;

– Đức hồng y Leonardo Sandri, Bộ trưởng Bộ các Giáo hội Đông phương;

– Đức hồng y Beniamino Stella, Bộ trưởng Bộ Giáo sĩ;

– Đức Tổng giám mục Diarmuid Martin, Tổng giám mục Dublin, Ireland;

– Đức Tổng giám mục Gintaras Grušas, Tổng giám mục Vilnius, Lithuania;

– Đức giám mục Marcello Semeraro, Giám mục Albano, Italia;

– Đức giám mục Stanislas Lalanne, Giám mục Pontoise, Pháp;

– Đức giám mục Gines Ramón García Gines Beltrán, Giám mục Guadix, Tây Ban Nha;

– Đức giám mục Nuno Brás da Silva Martins, Giám mục phụ tá giáo phận Lisbon, Bồ Đào Nha;

Và ba giáo dân:

– Tiến sĩ Markus Schachter, giáo sư môn đạo đức truyền thông và xã hội thuộc phân khoa triết học của Dòng Tên tại München, Đức;

– Tiến sĩ Leticia Soberón Mainero, nhà tâm lý học và chuyên gia về truyền thông, trước đây là cố vấn của Hội đồngToà thánh về Truyền thông Xã hội (Mexico và Tây Ban Nha).

– Tiến sĩ Kim Daniels, nữ giáo dân người Mỹ, cố vấn cho Uỷ ban tự do tôn giáo của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ.

Chủ tịch Quốc vụ viện Truyền thông hiện nay là Đức ông Dario Edoardo Viganò. Quốc vụ viện Truyền thông đặt trụ sở tại số 5 đường Hoà Giải và chính thức hoạt động từ ngày 29 tháng Sáu 2015.

SAI LẦM CỦA NGƯỜI THẦU KHOÁN

Vào buổi tối kia, một người cha đến dự phiên họp giữa thầy cô và phụ huynh trong một trường trung học ở Chicago. Trong bài nói chuyện của một thầy giáo, người cha này đã bật khóc nức nở.

Sau khi lấy lại bình tĩnh, người cha xin lỗi và nói: “Con tôi không còn sống với tôi nữa. Nhưng tôi vẫn yêu thương cháu và tôi muốn biết việc học hành của cháu như thế nào.”

Sau đó người cha cho biết vợ ông và bốn đứa con đã bỏ ông chiều hôm đó.

Ông là một thầu khoán xây cất và nhiều khi làm việc đến 16 giờ một ngày. Đương nhiên, ông ít gặp gia đình hơn, và dần dà họ càng xa ông hơn nữa.

Sau đó người cha nói lên một điều thật buồn thảm. Ông nói: “Tôi muốn mua cho vợ con tôi những gì mà tôi hằng mơ ước mua cho họ. Nhưng rồi tôi quá bận tâm làm ăn đến độ tôi quên đi điều mà gia đình tôi cần đến nhất: đó là một người cha có mặt trong gia đình hằng đêm để yêu thương và nâng đỡ vợ con.”

Câu chuyện có thật này cho thấy điểm quan trọng của bài phúc âm hôm nay. Đó là:

Chúng ta có thể quá bận tâm làm việc đến độ quên đi lý do tại sao chúng ta làm việc. Chúng ta có thể quá bận tâm đến đời sống đến độ quên đi mục đích của đời sống. Chúng ta có thể quá bận tâm theo đuổi những gì có thể mua được bằng tiền bạc mà quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

Đó là một loại sai lầm mà cô Máctha đã vấp phạm trong bài phúc âm hôm nay. Cô quá bận tâm đến việc nấu nướng cho Chúa Giêsu đến độ cô quên đi lý do tại sao Chúa đến nhà cô. Người đến không vì miếng ăn; Người đến vì tình bạn.

Giả như khi chúng ta còn nhỏ, sống với cha mẹ và nếu Đức Giêsu cho biết Người sẽ đến thăm gia đình, chúng ta biết các bà mẹ sẽ làm gì. Họ sẽ động viên toàn thể nhân lực trong gia đình từ nhiều ngày trước để dọn dẹp, lau chùi nhà cửa. Họ sẽ sai con cái đi chợ mua thứ này thứ kia. Nói tóm, họ sẽ hành động giống như cô Máctha.

Nhưng mẹ chúng ta cũng giống như cô Maria. Họ luôn dặn dò để biết chắc là con cái ăn mặc đàng hoàng tử tế, đến ngồi chung quanh Đức Giêsu, chú ý đến những gì Người nói. Mẹ chúng ta sẽ quân bình giữa sự lưu tâm đến miếng ăn cho Đức Giêsu và lưu tâm đến tình cảm mà gia đình dành cho Người.

Đó là những người mẹ có tài giữ quân bình mọi sự, từ việc cơm nước trong nhà đến việc giặt giũ lau chùi. Nhưng các bà mẹ còn cần đến các người làm cha có khả năng quân bình mọi sự, từ việc kiếm tiền cho đời sống vật chất đến việc giáo dục con cái, nâng cao giá trị tinh thần của đời sống.

Ngày nay, không may, chúng ta sống trong một thế giới thật khác biệt.

Thật dễ để đánh mất sự quân bình trong thế giới ngày nay. Thật dễ để đánh mất cái nhìn xa trông rộng. Thật dễ để xáo trộn những gì là ưu tiên. Thật dễ để đánh mất khả năng nhận ra những gì cần làm và tại sao chúng ta làm công việc ấy.

Trong Thế Chiến II, một người lính trẻ trấn đóng ở hòn đảo Saipan thuộc Nam Thái Bình Dương cho biết trong thời gian nghỉ ngơi, anh và bạn hữu đến bơi ở một chỗ vắng vẻ kín đáo, ngay ở mé hòn đảo. Đó là một nơi thật đẹp có núi đá bao quanh.

Khi đến nơi, họ thấy nước thật trong đến nỗi có thể nhìn thấy cá bơi lội sâu dưới nước cả 10 feet. Tuy nhiên, sau khi họ bơi lội chừng một tiếng đồng hồ, nước trở nên đục ngầu vì cát bị khuấy động, họ không còn thấy được dưới đáy dù chỉ cách có một feet.

Nhưng hôm sau, khi họ trở lại, cát đã lắng đọng. Nước lại trong trẻo như trước.

Tâm trí chúng ta cũng như vũng nước đó. Nó cũng có thể vẩn đục vì những biến động trong cuộc sống hằng ngày khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ ràng. Chúng ta mất khả năng nhìn thấy mọi sự: quan điểm của chúng ta trở nên mù mờ; những ưu tiên của chúng ta trở nên hỗn độn; sự quân bình của chúng ta đã bị mất.

Khi điều này xảy ra, điều chúng ta cần thi hành là tạm ngừng và để nước đục của tâm trí trở nên trong trẻo lại. Chúng ta cần thi hành điều mà cô Maria đã làm trong bài phúc âm hôm nay. Chúng ta cần ngồi dưới chân Đức Giêsu trong sự thinh lặng cầu nguyện. Chúng ta cần để Người dạy chúng ta biết điều gì là quan trọng và điều gì không đáng kể.

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi chúng ta mỗi ngày hãy dừng lại ở dưới chân Đức Giêsu trong sự cầu nguyện, cũng như cô Maria đã làm trong phúc âm.

Điều này nêu lên một câu hỏi. Nếu chúng ta quá bận rộn đến độ mất cả thói quen cầu nguyện thì sao? Nếu chúng ta không biết thinh lặng cầu nguyện dưới chân Đức Giêsu thì sao? Chúng ta có thể làm gì để biết cách cầu nguyện?

Thật may mắn là có chúng ta có thể thi hành vài điều gì đó. Và chúng ta có thể bắt đầu ngay tối nay. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp cầu nguyện đơn giản đã từng giúp đỡ nhiều người như chúng ta làm lại thói quen cầu nguyện và biết được nghệ thuật cầu nguyện.

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chúng ta cần ba phút để làm ba điều.

Thứ nhất, chúng ta thinh lặng và nhớ lại những gì xảy ra trong ngày. Chúng ta nhớ đến các điều tốt đẹp khiến chúng ta vui sướng, tỉ như nhận được thư của người bạn cũ. Sau đó, chúng ta thành thật nói với Đức Giêsu về điều đó. Sau cùng, chúng ta cảm tạ Đức Giêsu vì lá thư ấy.

Trong phút thứ hai, chúng ta cũng nhớ đến những gì xảy ra trong ngày. Lần này, chúng ta nhớ đến điều không tốt, những điều làm chúng ta hối hận, tỉ như la hét cha mẹ, vợ chồng hay con cái. Chúng ta nói với Đức Giêsu về khuyết điểm này và xin Người tha thứ, chữa lành cho chúng ta.

Sau cùng, trong phút thứ ba, chúng ta nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến một số điều quan trọng phải thi hành, tỉ như việc nói chuyện ôn hòa với cha mẹ, vợ chồng hay con cái về một vấn đề đã xảy ra. Chúng ta nói với Đức Giêsu về điều đó và xin Người soi sáng, thêm sức để chúng ta có thể thi hành cách tốt đẹp.

Phương cách cầu nguyện đơn giản này đã giúp nhiều người lấy lại thói quen cầu nguyện và học được nghệ thuật cầu nguyện. Điểm tuyệt vời của phương cách cầu nguyện này là không những giúp chúng ta quan hệ đến đời sống thực tế mà còn giữ liên lạc với Đức Giêsu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá bận tâm đến đời sống mà quên đi lý do tại sao Ngài đã ban sự sống cho chúng con.
Xin giữ chúng con quá bận tâm đến đời sống mà quên đi mục đích của nó.
Xin giữ chúng con đừng quá theo đuổi những gì mà tiền bạc có thể mua được rồi quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

Bài Học Của Kiến

 

Tôi nhớ, năm tôi học lớp bốn, một hôm đi học về, tôi sà vào lòng ba khóc nức nở:

– Ba ơi, con là một đứa trẻ không thông minh phải không?

– Sao con lại nói vậy?

– Hôm nay, trên lớp, khi cô giảng, các bạn trong lớp đều đồng thanh đã hiểu bài. Chỉ riêng con là không hiểu gì cả.

– Thế con có nói với cô giáo không?

– Dạ không ạ! – Tôi rụt rè.

– Tại sao?

– Con sợ cô giáo và các bạn biết con dốt – Tôi vừa nói vừa quệt nước mắt.

Ba tôi thoáng nghĩ ngợi rồi xoa đầu tôi:

– Không sao đâu, con gái. Con không giải được bài toán đó nhưng con đã làm được rất nhiều bài toán khác cơ mà.

Dù được ba an ủi, nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn luôn tự ti về trí thông minh ít ỏi của mình. Từ bé, tôi gầy như cái que và quanh năm cảm sốt, sổ mũi. Vì vậy, tôi không được nhanh nhẹn như những đứa trẻ khác. Đôi khi, tôi coi việc học là một cực hình. Ba thương tôi lắm và luôn tìm cách an ủi, động viên tôi.

Buổi chiều hôm ấy, thấy tôi loay hoay với hết bài tập toán đến vẽ, bài tập tiếng Việt. Cứ làm bài tập này không được, tôi lại xem bài tập kia, nhưng cuối cùng, tôi chẳng hoàn thành được bài tập của môn nào cả. Thấy tôi ngồi chống cằm chán nản, ba dẫn tôi ra hiên nhà, nơi có những chú kiến nhỏ đang cần mẫn bò theo mép tường. Ba cùng tôi theo dõi những chú kiến chui vào cái lỗ nhỏ xíu, tấp nập những con kiến khác ra vào.

– Con có biết phía sau cái lỗ nhỏ xíu kia là gì không?

Tôi lắc đầu. Ba nói tiếp:

– Đó là một tổ kiến khổng lồ.

Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, ba giải thích:

– Con thấy đấy, những con kiến này nhỏ xíu, chúng rất yếu đuối nhưng lại xây được cái tổ lớn hơn bản thân gấp nhiều lần, với rất nhiều thức ăn dự trữ. Chúng có thể làm được điều ấy bởi có lòng nhẫn nại, kiên trì tha từng chút mồi về tổ. Và đặc biệt, chúng không bao giờ tự ti về thân hình nhỏ bé của mình.

Tôi đưa mắt nhìn ba tỏ ý không hiểu, ba mỉm cười:

– Có thể con không làm được một bài toán trong 5 phút, nhưng nếu chịu khó suy nghĩ, ba tin con sẽ làm được cho dù mất nhiều thời gian hơn, có thể là 20 hay 30 phút. Tuy chậm hơn một chút nhưng con vẫn tự làm được mà, phải không?

Tôi của cái thuở thơ ngây đó đã ngồi rất lâu để ngắm nghía đàn kiến tha mồi từng chút một với nỗ lực không mỏi mệ. Mỗi lần thất bại, tôi lại nghĩ đến những chú kiến bé nhỏ với sự kiên trì và nhẫn nại đáng nể phục. Tôi bắt đầu biết tin vào bản thân hơn và học được một điều: đừng bao giờ bỏ cuộc.

Cảm ơn ba và bài học về loài kiến!

Thiên Chúa của chúng ta tên là gì?

Các tín đồ Islam gọi Thiên Chúa là Allah, các tín đồ Do thái gọi Thiên Chúa là Giavê; còn Thiên Chúa của Kitô giáo tên là gì? Phải chăng là Chúa Ba Ngôi?

Thật không dễ trả lời cho các câu hỏi vừa nêu, bởi vì có ít là hai điều khó khăn: thứ nhất, Thiên Chúa không có tên họ kiểu như loài người; thứ hai, mỗi dân tộc đặt tên cho Thiên Chúa theo ngôn ngữ của mình, cho nên danh xưng của Thiên Chúa không tuỳ thuộc vào tôn giáo cho bằng vào văn hoá. Lý do thứ nhất xem ra đơn giản: trên mặt đất này, có cả tỉ con người, vì thế cần phải đặt tên cho mỗi người để xác định căn cước cá nhân và để phân biệt với những người khác; còn Thiên Chúa thì chỉ có một, cho nên không sợ lẫn lộn. Tuy nhiên, trong cuộc giao tiếp giữa con người với nhau, chúng ta cần phải đặt tên cho mỗi đối thể để khỏi bị hiểu lầm hoặc lạc đề; vì thế chúng ta tìm cách đặt cho Thiên Chúa một tên. Thế nhưng tên này tuỳ thuộc vào ngôn ngữ của mỗi dân tộc, chứ không phải là tên của chính Thiên Chúa. Tôi xin lấy một thí dụ: tên riêng của ông Tổng thống Hoa kỳ là George Bush, và tất cả các nước trên thế giới đều cố gắng đọc cho đúng tên ông ta; tuy nhiên, chúng ta gọi ông là “tổng thống” trong tiếng Việt, chứ đâu phải theo nguyên gốc tiếng Anh là President. Như vừa nói, Thiên Chúa không có tên riêng, nhưng mỗi dân tộc gọi ngài theo ngôn ngữ của mình. Vì thế nhiều danh xưng dành cho Thiên Chúa tuỳ thuộc vào văn hoá chứ không tuỳ thuộc vào tôn giáo. Nói cụ thể, Allah không phải là tên riêng của Thiên Chúa dựa theo đạo Islam, nhưng là danh từ thuộc vùng ngôn ngữ ả-rập. Vì thế các tín đồ Kitô giáo nói tiếng Ả-rập cũng kêu cầu Allah trong lời nguyện. Một cách tương tự như vậy, trong tiếng Việt, các kinh nguyện gần đây bắt đầu với lời xưng hô “Lạy Thiên Chúa”; nhưng hồi đầu thế kỷ XX thì bắt đầu bằng lời

Lạy Đức Chúa Trời”. “Thiên Chúa” và “Đức Chúa Trời” cũng vậy thôi, và chỉ được sử dụng ở trong tiếng Việt, chứ ra nước ngoài thì hết xài. Hơn thế nữa, cần phải nói rằng ở trên đất Việt Nam có 54 dân tộc, vì thế đến 54 cách xưng hô Thiên Chúa, chứ không hẳn là 54 tôn giáo.

“Thiên Chúa” có nghĩa là Chúa Trời, còn “Allah” có nghĩa là gì?

Lẽ ra trước tiên phải hỏi “Chúa Trời” có nghĩa là gì đã; rồi sau đó, mới bước sang ý nghĩa của từ Allah. Chúng ta sẽ trở lại với danh xưng “Chúa Trời” khi bàn đến các danh xưng được sử dụng trong từ ngữ Hán Việt; bây giờ chúng ta nói đến Allah trước. Đây là một từ ngữ phổ thông trong tiếng Ả-rập để gọi các vị thần linh, chứ không phải là tên riêng của vị thần nào, tương đương với danh từ El trong tiếng Do thái được sử dụng trong Kinh thánh Cựu ước. Cũng nên biết rằng tuy danh xưng Allah được dùng 2697 lần trong sách Coran (tức là Sách thánh của Islam), nhưng mà theo truyền thống của đạo Islam, thì Thiên Chúa có đến 99 tên. Các nhà phê bình cho rằng nên hiểu 99 tên như là 99 ưu phẩm của Thiên Chúa, trong đó ưu phẩm được nhắc đến nhiều hơn cả là Al-Rahman (Khoan nhân) và Al-Rahim (hay thương xót). Dù sao, từ Allah ghép bởi hai từ al-ilah, một từ ngữ phổ quát trong vùng Trung đông để ám chỉ các thần linh, tương đương với danh từEl, eloah trong tiếng Do thái. Nói cách khác, không có gì là riêng tư độc đáo của đạo Islam hay đạo Do thái trong danh xưng dành cho Thiên Chúa. Hơn thế nữa, vào thời xa xưa, El là một từ ngữ rất chung chung, ám chỉ bất cứ nhân vật nào (tương tự trong tiếng Việt: “kẻ”, “vị”, “đấng”, “đức”). Có lẽ vì thế mà vào thời các tổ phụ, người ta phải kèm thêm một thuộc từ để xác định bản tính của Thiên Chúa, chẳng hạn như như El- elyon: (Đấng Tối cao), El Shaddai (Đấng Toàn năng), El-Hai (Đấng hằng sống). Mặt khác, các học giả còn lưu ý rằng đôi khi từ el hay elohim cũng được dùng để ám chỉ các thiên sứ (thí dụ Thánh vịnh 139,1; 29,1; Gióp 1,6). Dù sao, ngoài những danh xưng chung cho vùng văn hóa địa phương, người Do thái xác tín rằng Thiên Chúa đã mặc khải riêng cho họ một tên riêng của ngài là Giavê

Như vậy, “El” hay “Allah” là tên chung cho các thần linh; còn “Giavê” mới đúng là tên riêng của Thiên Chúa phải không?

Nếu chỉ dựa đoạn văn của sách Xuất hành (6,2-6), thì phải trả lời rằng: “đúng thế”. Đoạn văn viết như thế này:

“Thiên Chúa phán với ông Môsê: Ta là Giavê. Ta từng hiện ra cho Abraham, Isaac, Giacop như El Shaddai, nhưng ta không cho họ biết danh hiệu Giavê”. Tuy nhiên, ngày nay, các học giả đã đặt lại vấn đề, bởi vì xem ra người Do thái đã biết đến danh xưng Giavê từ trước ông Môsê rồi, không những dựa theo đoạn văn Sáng thế chương 4 câu 26 (nghĩa là vào thời con cái ông Abel), nhưng theo sách Xuất hành (6,20) ngay cả bà thân mẫu của ông Môsê cũng đã mang tên là Jokebed (vinh quang của Giavê). Mặt khác, Giavê không phải là bí danh hay ám số gì hết: Giavê có nghĩa là “Đấng hằng hữu”. Dù sao, tên gọi Thiên Chúa không quan trọng cho bằng niềm thâm tín về bản tính của Ngài. Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê về mối tương quan mới dành cho dân Do thái: Ngài đã thiết lập một giao ước với họ, họ là một dân được tuyển chọn. Đối lại, người Do thái không được thờ lạy thần linh nào nữa hết, theo như đoạn văn của sách Đệ-nhị-luật (6,4-5) quen gọi là kinh Shema: “Hãy nghe đây, Israel. Giavê Chúa của chúng ta, chỉ có một. Ngươi hãy yêu mến Giavê Chúa của ngươi hết tâm lòng, hết sức lực”.

Như vậy là từ thời ông Môsê trở đi, người Do thái cầu khẩn Thiên Chúa là “lạy đức Giavê” phải không?

Các tác giả không nhất trí trong vấn đề này. Có ý kiến cho rằng tiếp theo việc mặc khải danh thánh Giavê, thì người Do thái đã kêu cầu danh xưng được coi như là tên riêng của Thiên Chúa. Có ý kiến khác cho rằng vì danh Thiên Chúa mang tính cách linh thiêng, cho nên các tín đồ không dám đụng tới nữa. Giới răn thứ hai đã chẳng nghiêm cấm “chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ” đấy ư? Dù sao, thì từ thời đầu Công nguyên, các tín đồ không dám đọc tên Giavê nữa, và thay bằng tiếng Adonai. Adonai là một danh từ phổ quát, có nghĩa là “chủ, chúa, lãnh tụ” (đúng ra ở số nhiều, bởi vì số ít là Adoni). Danh từ này được dịch sang tiếng Hy-lạp làKyrios, và tiếng La-tinh là Dominus. Mặt khác, như ta thấy trong các thánh vịnh, các người Do thái kêu cầu Thiên Chúa với nhiều danh xưng khác nhau: Lạy Đấng Thánh, Lạy Đấng Toàn năng, Lạy Đấng Tín Trung, Lạy Đấng Đáng Chúc tụng, vv.

Dân Do thái tin rằng Thiên Chúa mặc khải danh của Người là Giavê, nhưng họ kêu cầu ngài là Adonai. Tân ước có thêm điều gì mới về danh xưng của Thiên Chúa không?

Chúng ta nên phân biệt hai khía cạnh: ngôn ngữ và nội dung. Về ngôn ngữ, trong Cựu ước, Kinh thánh viết bằng tiếng Do thái, và vấn đề danh xưng có thể khảo sát dựa theo ngôn ngữ của dân tộc Do thái. Bước sang Tân ước, ta thấy rằng tuy Đức Giêsu (đọc theo nguyên gốc Do thái là Giơ-ho- sua có nghĩa là: Giavê cứu chữa) dùng tiếng Do thái, nhưng bản văn Phúc âm lại được viết bằng tiếng Hy-lạp. Vì vậy các từ ngữ của Cựu ước được chuyển dịch từ tiếng Do thái sang tiếng Hy-lạp. Đến khi Tin mừng được truyền bá sang dân tộc khác, thì các từ ngữ sử dụng còn phức tạp hơn nữa. Nói cách vắn tắt, hai từ ngữ Do thái vốn được coi như là riêng của đạo Do thái Elohim Giavê (hoặc Adonai) thì được dịch sang tiếng Hy-lạp Theos Kyrios, và tiếng La- tinh Deus Dominus: những danh từ này vốn đã được sử dụng để chỉ các thần linh nói chung, chứ không riêng của một tôn giáo nào. Điều này cũng xảy ra trong các ngôn ngữ châu Âu sau này, thí dụ tiếng Pháp là Dieu và Seigneur, tiếng Anh là God và Lord. Nên lưu ý là từ deus tiếng La- tinh, dieutiếng Pháp và god tiếng Anh được dùng để gọi các thần; vì thế mà tuy cùng là một từ ngữ, nhưng khi chuyển sang tiếng Việt thì có lúc phải dịch ra “thần” (hoặc thần linh), có lúc được dịch là “Thiên Chúa”; còn danh từ Dominus, Seigneur, Lord thì được dùng trong ngôn ngữ hằng ngày để gọi các “ông”, hoặc “ông hoàng, ông chủ”.

Đó nói vấn đề dịch thuật ngôn ngữ, còn vấn đề nội dung thì sao?

Khi nói đến nội dung thì chúng ta gặp thấy nhiều điều mới, mà giới hạn thời giờ không cho phép tôi đi sâu. Tôi chỉ ghi nhận ba điều. Thứ nhất, thánh Phaolô dùng danh từ Theos (Deus, Dieu, God) cho Chúa Cha, và danh từ Kyrios (Dominus, Seigneur, Lord) cho đức Kitô; thánh Gioan thì gọi đức Kitô bằng cả hai danh xưng đó, cụ thể là trong lời tuyên xưng của tông đồ Tôma sau khi chạm đến Chúa Kitô phục sinh. Nhận xét thứ hai, nhiều học giả cho rằng danh xưng mới để ám chỉ Thiên Chúa trong Tân ước là “Cha”, và đức Giêsu đã dạy chúng ta hãy dùng từ này khi cầu nguyện, và Người đã nêu gương trước. Tuy nhiên, trong phụng vụ, các lời nguyện chính thức kêu cầu Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu (và được hiểu về Chúa Cha). Nhận xét thứ ba, các nhà thần học thú nhận rằng các ngôn ngữ của con người đều mang tính cách giới hạn, không thể nào diễn tả được bản tính của Thiên Chúa, như sách Đạo đức kinh đã viết: “Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh phi thường danh: đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cữu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi nó thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến”.

Thế trong tiếng Việt, Thiên Chúa có nghĩa là gì?

Đây là một danh từ Hán Việt, Thiên Chúa (hoặc Đức Chúa Trời) không chỉ có nghĩa “Chúa trên trời” mà còn nghĩa là “Chúa cả trời đất” (hay Chủ tể càn khôn) nữa. Trong lịch sử truyền giáo, đã có nhiều cuộc tranh luận xem có nên dùng từ “Thượng đế” hay “Thiên chủ” không. Nhưng mà trong bối cảnh lịch sử văn hoá hồi thế kỷ XVII-XVIII, vì sợ gây hiểu lầm giữa quan niệm Thiên Chúa của Kitô giáo với Thượng đế của các tôn giáo cổ truyền, cho nên người ta tránh dùng từ “Thượng đế”, và thậm chí có lúc để nguyên tiếng La-tinh “Chúa Dêu” (Deus). Dù sao, nên lưu ý là danh xưng Chúa Trời có nghĩa là đấng dựng nên trời đất, trong khi quan niệm cổ điển “Trời” có khi được hiểu là đấng Chủ tể (ông trời), nhưng đôi khi được hiểu về thiên nhiên mà thôi (trời mưa, trời nắng thôi).

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.

Đức Thánh Cha bổ nhiệm tân phát ngôn viên Tòa Thánh

 

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm một giáo dân người Mỹ, là ông Greg Burke, làm giám đốc phòng Báo chí Tòa Thánh thay cho Cha Federico Lombardi, 73 tuổi. Quyết định này có hiệu lực từ 01 Tháng Tám.

Cha Federico Lombardi nổi bật với tính khiêm tốn và khả năng ứng phó thông minh, linh hoạt và bặt thiệp trong nhiều tình huống rất khó khăn.

Mặc dù có rất nhiều vị trí tại Vatican thực sự thực thi quyền lực trên thực tế, nhưng rất ít các nhân vật trong giáo triều Rôma được công chúng biết đến cho bằng phát ngôn viên Tòa Thánh. Trong suốt triều đại Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, và các giai đoạn đầu triều đại Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cha Lombardi được trích dẫn nhiều nhất khi người ta đề cập đến Giáo Hội Công Giáo. Vì thế, ngài đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhận thức chung về Giáo Hội Công Giáo.

Năm 2013, tập đoàn Allianz, công ty dịch vụ tài chính đa quốc gia của Đức, hoạt động tại hơn 70 quốc gia và có hơn 78 triệu khách hàng trên toàn thế giới, đã quyết định trao giải “Nhân vật Truyền thông của năm” năm 2013 cho cha Lombardi.

Trong các lý do trao giải, tập đoàn Allianz nói rằng cha Lombardi “tiêu biểu cho chiếc chìa khóa để hiểu và giải thích Tòa Thánh với kinh nghiệm và sự tinh tế tuyệt vời, mà không tìm cách làm cho mình trở thành nhân vật chính”. Bản văn trao giải cũng cho biết thêm, Giám đốc Phòng Báo chí đã luôn “phục vụ truyền thông từ cả hai phía: người sở hữu thông tin cũng như người tìm kiếm thông tin”.

Một năm sau đó, Cha Lombardi lại được Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha trao giải “Bravo”. Giải “Bravo” là giải thưởng hàng năm cuả Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha nhằm vinh danh những người làm công tác truyền thông đã có những đóng góp to lớn cho phẩm giá của con người, quyền con người, và các giá trị Tin Mừng.

Ông Greg Burke, năm nay 56 tuổi, từng làm việc cho UPI, Reuters, National Catholic Register, tạp chí TIME, và Fox News trước khi trở thành cố vấn truyền thông cho Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh vào năm 2012. Ông là một thành viên giáo dân sống độc thân của phong trào Opus Dei, và đã giữ chức vụ Phó giám đốc Văn phòng báo chí Tòa Thánh kể từ ngày 01 tháng 2 năm nay.

Người tiền nhiệm của cha Lombardi, là tiến sĩ Joaquin Navarro-Valls, là giám đốc phòng Báo chí Tòa Thánh từ 1984-2006 và là cũng một thành viên sống độc thân của Opus Dei.

Sáng thứ Hai 11 tháng Bẩy, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh cũng công bố rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm một nữ giáo dân Tây Ban Nha, là bà Paloma García Ovejero, 40 tuổi, làm phó giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh. Kể từ năm 1998, bà Paloma García Ovejero đã làm việc cho Cadena COPE, là mạng vô tuyến truyền hình lớn thứ hai của Tây Ban Nha, và đã từng là phóng viên của cơquan này tại Ý và Vatican kể từ năm 2012.

Cha Federico Lombardi sinh ngày 20 tháng 8 năm 1942 tại Saluzzo, Italia. Ngài là một nhà thần học và triết học. Bên cạnh đó vị linh mục Dòng Tên này cũng là một nhà toán học. Ngài đã làm việc cho các phương tiện truyền thông hơn 30 năm qua.

Ngày 11 Tháng Bảy năm 2006, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã bổ nhiệm ngài làm giám đốc Văn phòng báo chí Tòa Thánh, thay thế cho tiến sĩ Joaquin Navarro – Valls, là người đã giữ chức vụ này liên tục trong 22 năm.

Từ năm 1991, ngài đã được bổ nhiệm làm giám đốc chương trình của Radio Vatican, sau đó được bổ nhiệm làm Giám Đốc Truyền Hình Vatican vào năm 2001, và Tổng Giám Đốc Radio Vatican năm 2005.

Nét nổi bật của ngài là tính khiêm tốn và khả năng ứng phó linh hoạt và bặt thiệp.

Trong lần ra mắt đầu tiên với báo chí, cha Lombardi nói ngài sẽ không phải là một “phát ngôn viên” của Đức Giáo Hoàng

Ngài nói: “Tôi không nghĩ rằng vai trò của tôi là để giải thích ý tưởng của Đức Giáo Hoàng hoặc giải thích những điều mà ngài đã phát biểu một cách hết sức rõ ràng và phong phú.”

Bên cạnh tiếng Ý là tiếng mẹ đẻ của mình, cha Lombardi nói thông thạo các ngôn ngữ Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.