Home Blog Page 488

CHUYỆN LẠ” Ở ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN ĐÁNG SUY NGẪM

Một dân tộc từ trẻ nhỏ là mầm non của đất nước được dạy dỗ hết sức chu đáo như vậy thì dân tộc Nhật làm sao THUA được Ba Tàu mà Ba Tàu dương oai diệu võ với Nhật trên biển Hoa Đông.

Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao? Các bác tài sẽ tự chở bạn thẳng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”.

Sự trung thực của người Nhật, in đậm nét ở những “Mini shop không người bán” tại Osaka. Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân. Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm. Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh. Người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng. Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà. Nhẹ nhàng và đơn giản. Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka… cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ/túi xách.

Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào. Người Nhật tự hào khẳng định động từ “ăn cắp vặt” gần như đã biến mất trong từ điển. Nếu bạn đến Nhật, toàn bộ các cửa hàng sẽ tự động trừ thuế, giảm 5 – 10% khi biết bạn là khách nước ngoài.

Nguyên tắc không gây tiếng ồn được áp dụng triệt để tại Nhật. Tất cả đường cao tốc đều phải xây dựng hàng rào cách âm, để nhà dân không bị ảnh hưởng bởi xe lưu thông trên đường. Osaka bỏ ra 18 tỷ USD xây hẳn 1 hòn đảo nhân tạo để làm sân bay rộng hơn 500ha ngay trên biển. Lý do đơn giản chỉ vì “người dân không chịu nổi tiếng ồn khi máy bay lên xuống”.

 

Tại các cửa hàng mua sắm, dù đang vào mùa khuyến mãi, cũng không một cửa hàng nào được đặt máy phát ra tiếng. Tuyệt đối không được bật nhạc làm ồn sang cửa hàng bên cạnh. Muốn quảng cáo và thu hút thì cách duy nhất là thuê một nhân viên dùng loa tay, quảng cáo với từng khách.

 

Vì sao trên những cánh đồng ở Nhật luôn còn một góc nguyên, không thu hoạch? Không ai bảo ai, những nông dân Nhật không bao giờ gặt hái toàn bộ nông sản mà họ luôn để phần 5-10% sản lượng cho các loài chim, thú trong tự nhiên.

 

Mọi đứa trẻ đều được dạy về sự bình đẳng. Để không có tình trạng phân biệt giàu nghèo ngay từ nhỏ, mọi trẻ em đều được khuyến khích đi bộ đến trường.

 

Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất. Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.

 

Cách dạy con “cư xử” và “yêu mến” thức ăn của người Nhật khiến nhiều người sửng sốt và ngưỡng mộ. Ngay từ nhỏ trẻ em được dạy cách ăn uống lịch sự, các phần ăn buffet không bao giờ bị bỏ phí, cách ăn uống sạch sẽ gọn gàng cũng được đề cao.

 

Việc mặc đồng phục vest đen từ người quét đường đến tất cả nhân viên, quan chức cho thấy một nước Nhật không khoảng cách. Những ngày tuyết phủ trắng nước Nhật, từ trên cao nhìn xuống, những công dân Nhật như những chấm đen nhỏ di chuyển nhanh trên đường. Tất cả họ là một nước Nhật chung ý chí, chung tinh thần lao động.

Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật. Không có bất cứ sự ưu tiên. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là vị Thủ tướng.

 

Trong thảm họa, hay trong bão tuyết người ta vẫn kiên nhẫn xếp hàng và không có chuyện chen lấn. Thomas Edison từng dạy: “Tất cả mọi thứ sẽ đến với người biết hối hả trong khi chờ đợi”. Chính yếu tố con người đã giúp Nhật Bản làm lại từ đầu và phát triển nhanh chóng để trở nên cường thịnh như ngày hôm nay. Không có cảnh la lối, tranh giành. Mọi người đều bình tĩnh, trật tự, trước và sau khi động đất xảy ra. Người dân vẫn kiên nhẫn xếp hàng chờ đến lượt lên xe buýt (lúc này, xe buýt là phương tiện công cộng duy nhất còn có thể hoạt động), kiên nhẫn xếp hàng chờ gọi điện thoại công cộng (vì hệ thống thông tin di động bị tắc nghẽn hoàn toàn), lương thực thực phẩm trở nên khan hiếm, thế nhưng không hề có tình trạng đẩy giá bán hay đầu cơ, găm hàng để trục lợi, các nạn nhân đều có thể tìm thấy sự giúp đỡ từ cộng đồng xung quanh mình.

Người Nhật đứng xếp hàng theo một cách mà không một nơi nào trên trái đất này có thể sánh được. Họ làm cho việc xếp hàng trở nên dễ chịu với tâm niệm rằng có một điều gì đó rất đáng để chờ đợi ở phía trước mà thực tế thì có khi không phải luôn luôn như họ nghĩ. Trong quan niệm của người Nhật thì một sự kiện mà không phải xếp hàng để xem thì rất đáng ngờ. Không xếp hàng có nghĩa là có điều gì đó không tốt, không có đám đông có nghĩa là giá trị thấp.

 

Đối với một vài người Nhật khác thì xếp hàng là một cơ hội để họ gần gũi người thân và nói những câu chuyện không bao dứt. Họ biến việc xếp hàng thành một kỷ niệm đáng nhớ. Anh Nakajima phát biểu ” Bạn đến đây với gia đình và bạn bè. Bạn đứng với họ trong một khoảng thời gian dài. Và sau đó bạn sẽ nói hãy nhớ về ngày hôm nay chúng ta đã cùng nhau đợi chờ ở hội chợ dưới cái năng của mùa hè”

Và còn một lý do nữa là người Nhật rất thích tìm hiểu về văn hóa của các nước. Sự thú vị của văn hóa nước ngoài đã biến việc phải xếp hàng chờ đợi trở nên hấp dẫn. Cô M. Tanaka, một giáo viên đại học nói rằng: “Trong suy nghĩ của người Nhật, cơ hội được tìm hiểu những nền văn hóa mới là điều hấp dẫn không thể cưỡng lại được”.

Qua những hình ảnh trên mong mọi người có cái nhìn thật đúng đắn về chuyện xếp hàng và nâng cao nhận thức về hành vi, trách nhiệm của bản thân. Ngay cả đứng trên thang máy họ cũng đứng gọn sang 1 phía để những người vội có khoảng trống di chuyển.

 

Ở Nhật, nội trợ là một nghề. Hàng tháng chính phủ tự trích lương của chồng đóng thuế cho vợ. Do đó, người phụ nữ ở nhà làm nội trợ nhưng vẫn được hưởng các chế độ y như một người đi làm. Về già, vẫn hưởng đầy đủ lương hưu. Độc đáo hơn nữa là nhiều công ty áp dụng chính sách, lương của chồng sẽ vào thẳng tài khoản của vợ. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình vì thế luôn được đề cao, tôn trọng.

Trên đây là những đức tính thật đáng ngưỡng mộ của người Nhật. Mình thật sự ngỡ ngàng bởi những thông tin rất thú vị . Mình không có ý “sính ngoại” nhưng thực lòng thấy Việt Nam phải còn học hỏi rất nhiều.

 

Trong bức ảnh người Việt chen lấn đổi mũ bảo hiểm như trong loạn lạc so với cảnh người Nhật xếp hàng trong thảm họa như trong bình yên mà không khỏi chạnh lòng. Tự bản thân mình sẽ rút ra được bài học văn minh và ý chí của người Nhật.

 

“Tôi là anh em của ai?”

Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là một thắc mắc do nhà thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” (Lc 10,25). Biết ông ta là nhà thông luật nên Chúa Giêsu yêu cầu ông hãy tự tìm lời giải đáp. Ông đã tìm thầy và trả lời rất chính xác khi tóm lược hai Giới răn chính :“Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn, và thương mến anh em như chính mình” (Lc 10,27). Chúa khen ông trả lời đúng, nhưng để biện minh, ông hỏi thêm: “Nhưng ai là người anh em của tôi?” (Lc 10,29). Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để trả lời ông. “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô…” khi đọc lên mọi người biết ngay: đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu !

Quan niệm của người Do thái về người thân cận

“Ai là anh em của tôi ?” Trong Do thái Giáo thời bấy giờ có sự bàn cãi về người anh em của người Israel. Vì theo họ, phạm trù “người anh em” bao gồm tất cả những người đồng hương với mình và những người dân ngoại bí mật theo Do Thái giáo. Khi chọn nhân vật (một người Samaritanô đến giúp đỡ một người Do thái!) Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, phạm trù người anh em là phổ quát. Chân trời của nó là nhân loại chứ không phải gia đình, chủng tộc, hay tôn giáo. Người thù chúng ta cũng là một người anh em! Tin Mừng theo Thánh Gioan dẫn chứng những người Do thái trên thực tế không có tương quan tốt với những người Samaritanô (x. Ga 4,9).

Mọi người là anh em với nhau

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng tình yêu người thân cận không những phải phổ quát mà con phải cụ thể và tiên phong thực hiện. Người Samaritanô cư xử thế nào trong dụ ngôn? Nếu người Samaritanô chấp nhận nói với người bị hại đang nằm đó trong vũng máu rằng, kẻ vô phúc! Sao xảy ra như vậy? Hãy vui lên! Hay một điều tương tự, rồi tiếp tục lên đường, thì tất cả những sự kiện đó không phải là mỉa mai sao? Trái lại, ông đã làm một nghĩa cử cho người bị hại : “Ông ta lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng:Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông.” (Lc 10,34-35). Cuối dụ ngôn Chúa Giêsu hỏi người thông luật : “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó [thầy Lêvi, thầy tư tế, người Samaritanô] là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” (Lc 10,36)

Điều mới lạ trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu không phải là Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu cụ thể, phổ quát. Nhưng mới lạ ở tại một cái gì khác, mà Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI : Chúa Giêsu đem đến một sự đảo ngược bất ngờ trong quan niệm truyền thống về người anh em. Người Samaritanô là anh em chứ không phải là người bị thương tích, như chúng ta vẫn quan niệm. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải đợi cho tới khi người anh em chúng ta xuất hiện trên đường đi của chúng ta, có lẽ là quá thê thảm. Chúng ta phải sẵn sàng nhận ra họ, gặp họ. Tất cả chúng ta được kêu gọi nên người anh em! Vấn đề của người thông luật bị đảo ngược. Từ một vấn đề trừu tượng và lý thuyết, trở thành một vấn đề cụ thể và sống động. Câu hỏi không phải là : Ai là người anh em của tôi? Nhưng ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của ai? (x Chương 7 sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”).

Tôi là anh em của ai?

Giả thiết, nếu Chúa Giêsu đến với dân Israel hôm nay và một người thông luật lại hỏi Người, “Ai là người anh em của tôi? ” Người sẽ thay đổi một chút bài dụ ngôn và thay vì người Samaritanô, Người sẽ đặt một người Palestin! Nếu một người Palestin hỏi Người cũng một câu hỏi, thì trong chỗ người Samaritanô chúng ta sẽ gặp một người Israel!

Chúng ta không áp dụng cho Trung Đông nữa. Nếu có ai trong chúng ta đang ngồi đây hỏi Chúa Giêsu :”Ai là người anh em của con? ” Thì Người sẽ trả lời sao? Chắc chắn Người sẽ nhắc chúng ta rằng người anh em chúng ta không những là người đồng hương Việt Nam máu đỏ da vàng với chúng ta, nhưng cũng là những kẻ ngoài cộng đồng chúng ta, không những là những người Kitô hữu mà còn những người Phật Giáo, không những là những người Công Giáo mà cũng là những người Tin Lành, không những là người cùng tín ngưỡng mà cả những người vô thần nữa. Nhưng Người sẽ nói thêm liền là  điều này không phải là quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất  không phải biết ai là người anh em của tôi nhưng là thấy ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của những ai, tôi có thể làm người Samaritanô nhân hậu cho ai.

Hôm nay, Chúa nói với chúng ta : Hãy đi và làm y như vậy(Lc 10,37), làm như người Samaritanô đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: “Ai là anh em tôi? “, nhưng hãy đi và tỏ ra mình là anh em của mọi người. Amen.

Làm gì để thức tỉnh những người Việt độc ác?

Mấy năm trước, GS. NGND Nguyễn Lân Dũng đã từng gây bão khi tuyên bố: Nhiều người Việt ham tiền, háo danh, coi thường danh dự, vô cảm và hèn nhát, coi nhẹ ý nghĩa “đồng bào”…

1. “Sao người tốt hay phải chết sớm như vậy?”

Khi bài báo Làm người Việt là một định mệnh được chia sẻ rộng rãi, có một số người phản đối.

Họ nói, nhà báo chỉ vẽ ra những sự kiện, con số khiến dư luận sợ hãi. Chất lượng sống ở Việt Nam chả có gì đáng phàn nàn, cứ thử sang Mỹ, sang Bỉ, sang Pháp xem…, có khi còn mất mạng bởi bọn khủng bố.

Tôi không tranh luận họ, trái lại còn rất mừng, bởi vì họ đã đề cập đến hai từ “sợ hãi”.

Trong cái ngày mà hung tin về Trần Lập tràn ngập mạng xã hội, có đến 6 người đã run rẩy và sợ hãihỏi tôi “sao người tốt lại hay phải chết sớm như vậy?”.

Có một điều chung đặc biệt ở cả 6 người này: Họ đều rất trẻ và đang mắc bệnh ung thư.

Sau loạt bài tấn công thực phẩm bẩn, tôi đã có thêm rất nhiều người bạn thân thiết. Họ là bệnh nhân ung thư hoặc có người thân đang mang trong mình mầm họa ấy.

Chưa khi nào có thêm bạn mà tôi lại buồn đến như vậy. Những người bị ung thư luôn cần người chia sẻ thường xuyên những lo sợ, ám ảnh, mệt mỏi và diễn biến xấu đi từng ngày của bệnh.

Nguyễn Nga, cô giáo mầm non ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, nhân vật chính trong bài báo Em đã khóc ngất. Em không bản lĩnh bằng Trần Lập vừa khóc vừa chát với tôi, khi nghe tin một em gái trẻ vừa qua đời.

Nga và cô gái kia là hai trong 200 thành viên của CLB Phụ nữ kiên cường, tập hợp toàn chị em bị ung thư vú. Nhiều người kiên cường đến nỗi không cho cả người thân biết mình mắc bệnh hiểm nghèo.

Họ trao đổi với nhau cách ăn uống, tập luyện thể chất và tinh thần để chiến đấu với ung thư.

Mấy ngày trước em với nó còn bày cho nhau cách thiền, thế mà hôm nay nó đã buông bỏ tất cả. Từ lúc nghe tin, em thấy sợ hãi – Nga nói trong nước mắt.

Nhưng kiên cường đến mấy thì cũng không khỏi sợ hãi khi nhìn thấy tử thần lởn vởn.

Hoàn toàn khỏe mạnh, nhưng Bùi Anh, một nữ phóng viên của VOV xông xáo khắp hang cùng ngõ hẻm, cũng đã phải thốt ra hai từ “sợ hãi” khi kể rằng mình chỉ cách vụ nổ khủng khiếp ở Văn Phú có vài giây đi xe máy. Hôm ấy cô có việc đi qua đấy.

Ở một khu đô thị thanh bình, đi trên một chiếc cầu, đi dưới công trình trên cao, lỡ nhìn chăm chú vào một thiếu niên tóc xanh tóc đỏ hay va quệt giao thông nhẹ với một ai đó… tất cả, đều có thể bị thần chết chắn ngang đường.

Nơi nào sẽ là điểm an toàn cho mỗi chúng ta?

Thu Phương, một thạc sĩ tâm lý học tâm sự: “Từ ngày có con, em thấy mình sợ hãi rất nhiều thứ.

Sợ hết vắc xin tiêm cho con, sợ những chỗ vắc xin không đảm bảo. Sợ gửi con vào những nhà trẻ có quỷ dữ đội lốt bảo mẫu. Sợ con bị bắt cóc. Sợ con ăn phải thực phẩm bẩn. Sao trẻ con bây giờ ung thư nhiều thế!?”.

“Thảo nào, con em từ Mỹ về một tháng, mà cho ăn bột cứ nhè ra và gào khóc. Lúc ấy tưởng con bị bệnh gì, vội đưa sang Mỹ.

Sang đến nơi, chưa cần đi khám thì cháu đã ăn thun thút. Em nghĩ 100% là do thực phẩm bẩn” – một độc giả đã comment như thế trong bài Ngu thì chết và người Việt ăn gì để không chết?”.

Thịt lợn thiu thối được phù phép thành thịt bò, những con tôm cũng bị tiêm hoá chất trước khi đi bán.
Thịt lợn thiu thối được phù phép thành thịt bò, những con tôm cũng bị tiêm hoá chất trước khi đi bán

Một MC xinh đẹp của Đài truyền hình VTC, mới dẫn chồng con sang Úc để sống thử 2 tuần, với ý định sẽ cho con nhỏ sang học.

Ở Hà Nội, gia đình cô có căn hộ ở một khu vào loại đẹp nhất. Bạn bè, đồng nghiệp đều khuyên cô nên ở lại Việt Nam bởi “chả đâu bằng quê mình”.

Nhưng cô đắn đo rất dữ. Buổi chiều gần cuối cùng ở cái thành phố cô định đưa con sang, cô gặp một cụ già người Việt.

Ở đó rất ít người Việt, nên ông ấy cô đơn lắm. Nhìn cảnh ấy em lại không muốn rời Việt Nam. Nhưng ở lại mà con cái phải ăn thực phẩm bẩn, mình là bố mẹ, thấy thế mà không nghĩ cách, sao đành”, cô MC này chia sẻ.

Nếu ai nghĩ rằng, nữ MC ấy chỉ là một trong số rất ít người muốn ra nước ngoài để tránh những vấn nạn trong đời sống hàng ngày ở Việt Nam, thì có lẽ phải nghĩ lại. Câu chuyện 13 quán quân Olympia ra đi, chỉ có 1 người trở về, có lẽ là minh chứng thực tế nhất.

2. Cái gì không bị làm giả?

Doanh nhân Lâm Minh Chánh, một người sống ở TP.HCM hôm qua đã chính thức nhận sai với vợ mình:

“Khi hai chúng tôi còn cùng ở Úc những năm 97-99, chúng tôi đã quyết định không có con bên đó. Chúng tôi yêu thương Việt Nam, muốn đẻ con ở Việt Nam và nuôi con tại Việt Nam.

Đầu những năm 2000, sau khi về Việt Nam và chứng kiến nhiều chuyện đã xảy ra, vợ tôi thuyết phục tôi: “Tình hình như vậy, mình đẻ ít thôi, để nuôi con cho đến nơi đến chốn”.

Hồi ấy, tôi nghĩ vợ tôi suy nghĩ bi quan quá mức, nhưng càng ngày tôi càng thấy câu nói đó của vợ tôi đúng”.

Có thể thấy sự lo lắng của vợ doanh nhân Chánh là có cơ sở khi thấy thông tin bất an xuất hiện hàng ngày.

Khi nhiều người bệnh gửi niềm tin vào các loại thực phẩm chức năng đang quảng cáo vô tiền khoáng hậu, thì cơ quan chức năng bắt giữ tới… 20 tấn thực phẩm chức năng giả và một trong những nơi chúng tuồn vào là chợ thuốc lớn nhất Việt Nam: Hapulico, Hà Nội.

Không chỉ có thuốc, mà lòng nhân từ bây giờ người ta cũng giả. Làm từ thiện giả để trực lợi. Tin nhắn giả để moi tiền. Giả vờ giúp đỡ người bị tai nạn giao thông để hôi ví, cướp xe máy.

Mấy năm trước, anh trai của một người bạn hiện là PGS. TS, trên đường lên Hà Nội, bị tai nạn. Bọn xấu đã nhanh chóng lấy sạch ví tiền, trong đó đựng cả giấy tờ tùy thân của anh. Không ai biết anh ở đâu để báo cho người thân.

Người bị nạn được xe cấp cứu đưa vào một bệnh viện dưới dạng bệnh nhân không người thân thích.

Không thấy tin tức của con, người nhà đổ đi tìm các nơi nhưng không thể tìm ra. Gần 1 tuần sau tìm được đến viện, thì nạn nhân đã tắt thở.

Cơn bão đa cấp lừa của rất nhiều đơn vị như Liên Kết Việt, càn quét qua rất nhiều tỉnh thành Việt Nam, là minh chứng rất rõ cho sự xuống cấp nhân tính.

Người ta lao vào đa cấp lừa để mong nhàn nhã mà có thu nhập khủng. Để thành công, tất cả thành viên đều thực hiện một việc có tính nguyên lý: Tìm mọi cách bán hàng đa cấp giá cắt cổ cho chính những người thân thiết nhất, ruột thịt nhất của mình.

Kinh doanh, bắt đầu từ việc trục lợi người thân, mà hàng trăm ngàn người vẫn lao vào như thiêu thân, thì còn việc gì họ không dám làm?

> Mời xem những bài viết cùng tác giả TẠI ĐÂY

3. Quả ớt bị ruồng bỏ và nụ cười chiến thắng của kẻ ác

Hơn chục năm trở lại đây, người Việt ngày càng sợ nhiều thứ. Giống như GS Nguyễn Lân Dũng nói, họ hèn đi.

Những người đi xe đúng luật im thin thít khi bị kẻ lái xe láo mắng “đồ nhà quê”.

Những người đứng tuổi đành nuốt cục tức vào lòng khi bị “sửu nhi” mắng “già mà ngu”.

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn chua chát: “Hệ miễn dịch của dân mình với thói xấu đã không còn nên không thuốc gì chữa trị được.

Cái xấu người Việt có rất nhiều và tựu trung lại một đó là sự tham và gian”.

TS Trần Bắc Hải, một người đang làm việc tại Úc nhiều năm nay, kể câu chuyện “nói không với gian, tham của người Úc”. Câu chuyện về những quả ớt bị ruồng bỏ.

Mưa đá, làm cho một số mảnh kính rơi vào ruộng ớt đang mùa thu hoạch. Người chủ trang trại bạn TS Hải chấp nhận bỏ luôn không thu hoạch cả vườn ớt.

Lý do khiến những quả ớt bị ruồng bỏ này rất đơn giản, như lời ông chủ trang trại: “Nếu một quả ớt nào đó của tôi dính một miếng thủy tinh và làm đứt tay người tiêu dùng, thì doanh nghiệp tôi có thể đóng cửa”.

Câu chuyện của TS Trần Bắc Hải làm tôi nhớ đến hai nụ cười mà tôi đã gặp.

Đó là nụ cười của một lái buôn gà xuất hiện trong một clip quay bí mật khi người quay đột nhập lò thực phẩm bẩn.

Sau khi bơm phoóc – môn vào đùi và cánh gà, biến những con gà ăn cám công nghiệp trở thành “gà leo đồi”, người phụ nữ này cười rất tươi và nói với kẻ đến mua gà: “Xong rồi nhé, hàng đẹp”.

Đó là nụ cười của một người nông dân, khi thở phào hớn hở khoe với người nhà: “May quá, giải quyết được con lợn ấy rồi. Tí thì mất hết”.

Con lợn của ông bị bệnh lở heo tai xanh gần chết, nhưng ông vẫn “nhanh chân” bán được cho người đồ tể, dù giá chỉ còn một nửa.

Rất nhiều người Việt sẽ hân hoan kiểu như vậy khi đẩy thành công cho người khác những tội nợ của mình.

Nếu chẳng may, những tội nợ kiểu ấy rơi và gia đình họ, họ sẽ gào khóc như thể mình là nạn nhân đáng thương, bất hạnh nhất thế giới.

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa TƯ, khi hưu trí về sống giữa những người dân, đã có những câu thơ đầy lo lắng:

Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc

……

Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?

4. Bông hoa đẹp nhất, tính ích kỷ và sự sợ hãi

Trần Nhất Hoàng, cựu thành viên ban nhạc Bức tường, đã kể lại một chi tiết ám ảnh.

Trong hàng trăm dòng tin nhắn của bạn bè xót thương Trần Lập, có một người em gái gửi tới hình ảnh có ghi mẩu đối thoại.

Cô gái nhỏ thảng thốt: “Mẹ ơi, sao người tốt lại chết trẻ?”.

Người mẹ nhỏ nhẹ đáp: “Khi vào một vườn hoa, con sẽ ngắt bông hoa nào?”.

Con gái trả lời: “Bông hoa đẹp nhất!”.

Câu chuyện là một lời an ủi, nhưng tôi lại thấy thật buồn vì thẳm sâu trong mẩu đối thoại đó, phản ánh rất đúng bản tính ích kỷ, tư lợi của nhiều người Việt: Thấy hoa đẹp phải ngắt về cho riêng mình, chứ không để mọi người cùng ngắm.

Nhiều nơi, cây cối công cộng bị vặt trụi sau đêm giao thừa, vì ai cũng muốn có lộc riêng cho nhà mình.

Có nhiều câu trả lời cho câu hỏi: “Sao nhiều người tốt phải chết sớm như vậy?”.

Vì người tốt đâu có được ăn những thực phẩm tốt?

Vì rất rất nhiều người tốt, chính trực thì lại không tốt về “tiền tệ, quan hệ, hậu duệ, đồ đệ”, nên thường nghèo.

Nghèo thì khó mua thực phẩm sạch. Nghèo thì không có tiền tầm soát ung thư sớm. Không có cơ hội sang nước ngoài chữa bệnh, không đủ tiền xạ trị, hóa trị. Nghèo thì đành xin bệnh viện trả về đợi định mệnh giáng xuống.

Chúng ta không bi quan như nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn.

Người Việt thường biết vượt thoát và tự cứu được mình trong những thời khắc ngặt nghèo hoặc khi bị đẩy đến giới hạn cuối cùng của sự sợ hãi, của sự xấu hổ, của sự đau đớn, tủi nhục.

Phần thiện tiềm ẩn trong mỗi người Việt và trong xã hội vẫn rất lớn. Những câu chuyện nhân bản và biết hy sinh ngày càng có sức lan tỏa lớn trong cộng đồng.

Đó là lý do tại sao tôi thấy mừng khi những người phản đối bài báo Làm người Việt là một định mệnhnói đến hai từ “sợ hãi”.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều nói rằng, tự thấy chính ông đang phải sống trong một giai đoạn có nhiều sợ hãi.

Nhưng ông cũng lưu ý rằng, chúng ta phải cảnh tỉnh xã hội, dù “việc đó không hề dễ, bởi nó cần những người có lương tri phải dũng cảm”.

Rất dễ để trả lời câu hỏi: Tại sao Bí thư Đinh La Thăng, Bí thư Nguyễn Xuân Anh, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh… nhanh chóng được dân yêu đến như vậy?

Bởi vì các ông đang hàng ngày làm bớt đi nỗi sợ hãi của người dân bằng “lương tri dũng cảm” của chính mình.

Có người nói rằng, để thức tỉnh nhiều người Việt, chữa cho họ hết bệnh gian, tham, vô cảm, hèn nhát, cần một chặng đường dài, thậm chí phải một vài thế hệ.

Việc đầu tiên mà chúng ta cần làm là truyền thông để cho tất cả người Việt biết sợ hãi, biết căm giận cái ác, cái xấu của đồng loại.

Người Việt có câu rất hay để phê phán những người sống vô trách nhiệm, vô cảm: “Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ”.

Khi đã thấy sợ hãi và căm giận đến tận cùng, người ta sẽ không còn muốn sống chung, cam chịu với chúng.

Những bài báo nhỏ như thế này, chỉ muốn góp một phần rất nhỏ vào việc đánh thức cảm giác biết sợ hãi khi làm điều xấu của người Việt.

Ơn gọi Đan Tu là vinh dự và nguồn ơn thiêng của Giáo Hội

Nhìn lại lịch sử tồn tại của đời sống Đan Tu Chiêm Niệm, người ta không khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy Ơn Gọi Thánh Hiến này từ khởi đầu cho tới ngày hôm nay không ngừng phải đối mặt với những phê bình, bài bác và thóa mạ từ nhiều phía.

Martin Luther, cha đẻ của hệ phái Tin Lành Lutheraner ở Đức, đã gay gắt kết án đời sống Đan Tu Chiêm Niệm trong Giáo Hội Công Giáo là một lối sống “phản Kitô giáo tai hại, vô đạo, nặc mùi Do-thái, nặc mùi ngoại giáo”, vì ông cho rằng đời sống Đan Tu Chiêm Niệm cậy dựa vào công sức và việc làm của riêng mình(1), chứ không hoàn toàn tin tưởng phó thác vào một mình ân sủng Thiên Chúa và công trình cứu chuộc của Đức Kitô.

Tiếp đến là tầng lớp “trí thức“ ở Âu châu trong một giai đoạn thường được mệnh danh là “thế kỷ ánh sáng“ (le sièchle de la lumière) hay cũng được gọi là “thế kỷ triết học“ vào các thế kỷ XVII và XVIII, đã bài bác và thóa mạ một cách cực đoan vô lý đời sống các Đan Sĩ trong các Đan Viện thuộc các Dòng Tu Chiêm Niệm, như Dòng Biển Đức, Dòng Xitô, Dòng Cát-Minh, v.v… Họ cho đời sống các Đan Sĩ Chiêm Niệm – chuyên lo phụng sự Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn bằng các kinh nguyện và qua nỗ lực hoàn thiện đời sống cá nhân mỗi ngày – không những vô dụng mà còn phản tiến bộ, và như thế là một mất mát to lớn cho phúc lợi chung của xã hội. Thái độ phê bình và bài bác đời sống Đan Tu Chiêm Niệm của tầng lớp tự nhận mình là trí thức này có thể được coi là câu dạo đầu mở màn cho những cuộc bắt bớ các Đan Sĩ Chiêm Niệm, tàn phá hay tục hóa các Đan Viện của họ một cách tàn bạo và bất công do cuộc cách mạng Pháp nói chung và do bạo chúa Nã-phá-luân(2) nói riêng gây ra tại nước Pháp cũng như tại nhiều nước Âu châu khác vào cuối thế kỷ XVIII.

Và sau cùng, kể cả một thiểu số các tín hữu Công Giáo, gồm có giáo dân và giáo sĩ, cũng phê bình đời sống Đan Tu Chiêm Niệm là dư thừa và thiếu hiệu quả, xa lạ với xã hội và dửng dưng trước công cuộc truyền giáo. Họ cho rằng sứ mệnh truyền bá Tin Mừng, sứ mệnh mở mang Nước Chúa và cứu rỗi các linh hồn chỉ bằng lời cầu nguyện suông là hoàn toàn không đủ, nhưng còn cần phải bằng các hoạt động Tông Đồ cụ thể.

Tất cả những thái độ và những phê phán trên đây là cả một sự ngộ nhận tai hại, một sự nhận định hoàn toàn chủ quan, một chiều và lệch lạc về đời sống Đan Tu Chiêm Niệm. Đó cũng là một dấu chỉ cho thấy những người phê bình, bài bác hay đánh giá thấp Ơn Gọi Thánh Hiến này là chưa hiểu được mọi giá trị và vai trò thánh thiêng của kinh nguyện Kitô Giáo trong cuộc sống con người.

Chính Đức Giêsu đã dạy:

• “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến (các biến cố khủng khiếp xảy ra trong ngày thế mạt) và đứng vững được trước mặt Con Người“ (Lc 21,36).

• “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, kẻo phải sa vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, còn thể xác lại yếu hèn“ (Mt 26,41). “Simon, Simon, Sa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin“ (Lc 22,31).

• Và thánh tông đồ Phêrô cũng đã nhắn nhủ các tín hữu: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. (1Pr 5,8).

Trong Sắc Lệnh về việc “Canh tân thích nghi đời sống Dòng Tu Perfectae Caritatis (PC)“ thánh Công Đồng Chung Vatican II đã minh nhiên khẳng định:

Trong những Hội Dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các Tu Sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, thì cho dù nhu cầu hoạt động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, những Hội Dòng ấy vẫn luôn giữ một địa vị cao quí trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo, làm vẻ vang dân Thiên Chúa bằng những hoa trái Thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân ấy thêm lớn mạnh bằng việc tông đồ tuy âm thầm nhưng phong phú. Họ là vinh dự và là nguồn mạch tuôn trào các ơn thiêng.“ (3)

Trong văn kiện “Chiều kích chiêm niệm của đời sống Tu Trì“ (The Contemplative Dimension of Religious Life), công bố năm 1980, Thánh Bộ Tu Sĩ đã minh định rằng đời sống cầu nguyện và chiêm niệm nội tâm là căn bản của đời tận hiến. Theo truyền thống cũ xưa kia, đời sống Đan Tu Chiêm Niệm thường được quan niệm là một lối sống chỉ dành riêng cho những người tín hữu ưu tú đặc biệt trong Giáo Hội. Người ta cũng thường trình bày và so sánh đời sống của các Tu Sĩ thuộc các Dòng Chiêm Niệm và các Dòng Hoạt Động như hai lối sống Thánh Hiến hoàn toàn biệt lập, không có gì tương quan với nhau, nếu không muốn nói là đối kháng với nhau. Một thái độ và quan niệm như thế có thể làm cho người ta có cảm tưởng là hai lối sống đời Thánh Hiến ấy đã được “phân công“ rõ rệt: Các Tu Sĩ thuộc các Dòng Hoạt Động như thể những chiến sĩ chiến đấu ngoài tiền tuyến, còn các Đan Sĩ thuộc các Dòng Chiêm Niệm là những nhân công phụ trách sản xuất lương thực ở hậu phương. Nhưng nay với văn kiện này, Giáo Hội muốn sửa lại quan niệm lệch lạc ấy và đồng thời nhắc nhở tất cả mọi Tu Sĩ thuộc các Dòng Tu, Hoạt Động cũng như Chiêm Niệm, đều phải nỗ lực sống Đời Cầu Nguyện Chiêm Niệm mỗi ngày. Văn kiện mô tả sự chiêm niệm như là một sự nỗ lực nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa. Đó là tâm tình thờ lạy một cách khiêm tốn và liên lỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi người, trong các biến cố của cuộc sống và trong các sự vật.

Đời sống Chiêm Niệm chính là đời sống của ba nhân đức đối thần – tin, cậy, mến. Cũng chính trong đời sống chiêm Niệm Thiên Chúa thông ban mình cho con người bằng việc thông hiệp với Chúa Cha nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Linh.(4) Nhất là trong phần III của văn kiện, Giáo Hội đã đề cao và đánh giá đặc biệt Ơn Gọi Chiêm Niệm.(5) Bởi vì, những hoạt động Tông Đồ bên ngoài mà thiếu tâm hồn cầu nguyện và chiêm niệm bên trong của nhà truyền giáo, thì cũng giống như một cái xác không hồn, như một bức tượng không có sức sống bên trong. Điều đó muốn nói rằng một Tu Sĩ hoạt động tông đồ truyền giáo nhất thiết phải có tinh thần cầu nguyện chiêm niệm và một Đan Sĩ chiêm niệm nhất thiết phải có tinh thần truyền giáo sống động. Đời sống cầu nguyện chiêm niệm và công cuộc truyền giáo luôn liên kết khăng khít với nhau như thể một thực tại duy nhất được biểu lộ ra bên ngoài bằng hai hình thức khác nhau.

Các Đức Thánh Cha nói chung và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói riêng, luôn đề cao các giá trị và vai trò quan trọng bất khả thay thế của Ơn Gọi Đan Tu. Trong Tông Huấn của ngài về “Đời sống Thánh Hiến – Vita Consecrata (VC)“, công bố ngày 25.3.1996, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định đời sống Đan Tu Chiêm Niệm là một vinh dự và là nguồn ơn tuôn đổ trên đời sống Giáo Hội, ngài viết: “Các Hội Dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, là một niềm vinh dự và là nguồn mạch muôn vàn ơn thiêng cho Giáo Hội. Bằng chính đời sống và sứ mệnh của mình, những thành viên của các Hội Dòng này, noi gương Chúa Kitô cầu nguyện trên núi; các vị chứng tỏ quyền tối thượng của Thiên Chúa trên dòng lịch sử và tham dự trước vinh quang mai hậu. Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Chúa, phụng thờ Thiên Chúa, khổ chế bản thân, đọc kinh cầu nguyện, hãm mình và chia sẻ tình huynh đệ, các vị quy hướng trọn vẹn đời sống và mọi sinh hoạt của mình về sự chiêm ngắm Thiên Chúa. Như vậy, các vị cống hiến cho Giáo Hội chứng tá duy nhất về tình yêu mà Giáo Hội dành cho Thiên Chúa, cũng như góp phần vào việc làm tăng trưởng Dân Chúa, bằng một việc tông đồ âm thầm nhưng phong phú.“(6)

Và trong Tông Thư “Hồng Ân Cứu Độ – Redemptionis Donum“ của ngài, thánh Giáo Hoàng còn đào sâu chiều kích thần bí của Ơn Gọi Thánh Hiến như là đời sống mới, đời sống Giao Ước. Bởi vậy, chính thánh nữ Têrêxa Avila đã từng xác tín rằng sự cầu nguyện chiêm niệm là cấp độ cao nhất của con đường trọn lành nên thánh.

Tất cả những giáo huấn công khai và chính thức trên đây của Giáo Hội đã minh định cho ta thấy rằng Ơn Gọi Đan Tu Chiêm Niệm tự bản chất là một điều cần thiết cho đời sống Giáo Hội và cho công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo Hội luôn biết ơn và quý trọng đời sống Đan Tu Chiêm Niệm và Cầu Nguyện như một kho tàng vô giá, dĩ nhiên không vì nguồn gốc lịch sử lâu đời của nó trong truyền thống Giáo Hội, mà vì những giá trị thần bí linh thiêng và cao cả của nó. Đó là một lối sống Thánh Hiến biểu hiệu cho Nước Trời, biểu hiệu cho cuộc sống của các Thần Thánh trên Nước Trời, vì cũng như các Thần Thánh hằng phủ phục tôn thờ trước tòa Chúa trên Nước Trời, các Đan Sĩ Chiêm Niệm ngày đêm không ngừng dâng lên trước thánh nhan Thiên Chúa muôn điệu ca du dương thánh thót khi cử hành các Giờ Kinh Thần Tụng, hầu để ca ngợi và tạ ơn, với một cuộc sống trong an bình, thanh thoát, Thánh thiện và xa lánh mọi bon chen vật lộn của cuộc sống thế tục. Và trong quá trình nỗ lực nên trọn lành nên thánh mọi ngày của mình như thế, người Đan Sĩ đi sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa, tiếp cận với Người qua kinh nguyện, và nhờ thế người Đan Sĩ chuyển cầu lên trước tòa Chúa mọi nguyện ước chân chính và khẩn thiết của Giáo Hội, của xã hội và của mọi anh chị em đồng loại của mình.

Nhưng như đã đề cập tới ở trên, đời sống Đan Tu Chiêm Niệm và Cầu Nguyện đưa dẫn người Đan Sĩ tiếp cận với Thiên Chúa, với Đấng Tối Cao, với Đấng Toàn Chân, Toàn Thiện và Toàn Mỹ. Điều đó đòi hỏi người Đan Sĩ phải luôn nỗ lực trở nên hoàn thiện mỗi ngày, để xứng đáng được diện kiến trước thánh nhan Thiên Chúa, như lời Thánh Vịnh dạy: “Đây là cửa dẫn vào nơi Chúa ngự, chỉ những người công chính mới được qua.“(Tv 118,20).

Trong quá trình hoàn thiện bản thân của người Đan Sĩ, điều tiên quyết đòi hỏi người Đan Sĩ phải thực hiện là lột bỏ con người cũ đầy khiếm khuyết và bất toàn của mình, là tránh xa mọi tội lỗi và mọi thói hư tật xấu, vì chính Đức Khổng Tử, một người không phải là Kitô hữu, cũng đã khẳng định: “Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo giã: phạm tội với Trời thì còn cầu nguyện vào đâu được nữa“(7); tiếp đến là thực thi các lời khuyên Phúc Âm, giữ trọn Tu Luật và Nội Quy của Dòng, v.v… Nhưng trên hết phải sống trọn đức ái đối với hết mọi người, vì đức ái là luật tối thượng của đường trọn lành, là dây ràng buộc mọi nhân đức. (x. Cl 3,14). Thánh Augustinô đã từng xác tín: “Đức ái là nhân đức liên kết chúng ta với Thiên Chúa.” Cùng một tâm tình đó, thánh Justinô Tử Đạo nói: “Ôi! Mạnh mẽ biết bao mối dây liên kết với Thiên Chúa.” Vâng, đức ái là mối dây liên kết Thiên Chúa với linh hồn chúng ta qua Chúa Thánh Thần, Đấng là nguồn sống thánh hóa của ta.

Vậy, đời sống Đan Tu Chiêm Niệm và Cầu nguyện là nguồn động lực làm nảy sinh một sự tác động lưỡng diện: một đàng, để sống bền đỗ và sống hạnh phúc Đời Đan Tu của mình, người Đan Sĩ phải nỗ lực hoàn thiện chính bản thân mình mỗi ngày một cách tự nguyện và đầy ý thức; một đàng khác, chính đời sống Đan Tu Cầu Nguyện là động lực thu hút, thúc đẩy và thánh hóa người Đan Sĩ mỗi ngày một thêm thánh thiện và trọn lành hơn.

Sau cùng, như vừa nói ở trên, người Đan Sĩ không sống Ơn Gọi Chiêm Niệm và Cầu Nguyện cho một mình mình, hay nói cách khác, người Đan Sĩ không đến với Chúa một mình, nhưng với mọi anh chị em đồng loại của mình. Lời cầu nguyện của người Đan Sĩ luôn luôn phải trải rộng và bao trùm mọi nhu cầu, mọi ước vọng và mọi niềm vui nỗi buồn của anh chị em đồng loại của mình. Vâng, đời sống Đan Tu của các Đan Sĩ chiêm niệm luôn phải là “nguồn mạch tuôn trào mọi ơn thiêng“ như Công Đồng dạy.(8). Đó chính là sứ mệnh Ngôn Sứ của Ơn Gọi Đan Tu Chiêm Niệm vậy.

Lm. Nguyễn Hữu Thy

Chú thích

1. Luther chủ trương con người được cứu rỗi chỉ nhờ đức tin mà thôi, chứ không cần các việc lành phúc đức, như đọc kinh cầu nguyện, làm các việc hy sinh và khổ chế.

2. Nã-phá-luân tên đầy đủ trong tiếng Pháp là Napoléon Bonaparte (1769-1821) xuất thân từ đảo Corse (nằm giữa Ý và Pháp), có tài quân sự xuất chúng, gia nhập quân cách mạng và đã trở thành vị tướng tài ba của quân đội Pháp, bách chiến bách thắng. Sau khi chiếm được chính quyền ở Pháp, ông đã trở thành hoàng đế và một nhà độc tài hung hăng. Ông đã ra lệnh chèn ép Giáo Hội, bắt bớ các Tu Sĩ, tàn phá và tịch thu các Tu Viện. Sau khi thua trận ở Nga vào năm 1812 và tiếp đến ở trận chiến Waterloo vào năm 1815, ông bị truất phê và bị đày ra đảo St. Helena ở phía nam đại tây dương. Ở đây ông đã hồi tâm và thú nhận: “Tội lỗi lớn nhất của trẫm là không chỉ xúc phạm đến loài người mà đã xúc phạm đến Thiên Chúa.“ Trước khi chết ông đã ăn năn trở lại và được chịu Các Phép.

3. Vatican II: PC, số 7.

4. The Contemplative Dimension of Religious Life, số 1.

5. Cùng chỗ, xem từ số 24 đến 29.

6. Gioan Phaolô II: VC, số 8.

7. Luận Ngữ: Bát-dật, III.

8. Vatican II: PC, số 7.

3 bài thánh ca Thánh Thể tiếng La Tinh quen thuộc với tín hữu Công giáo

1. Tantum Ergo

Thực ra, khi hát lên bài thánh ca này, chúng ta chỉ hát lên hai câu cuối của một bài thánh ca dài hơn, là bàiPange Lingua Gloriosi, do thánh Tôma Aquinô sáng tác, thánh nhân dù được biết đến nhiều hơn như một thần học gia, triết học gia đại tài, ngài thực ra còn là một nhạc sỹ sáng tác thánh ca, đã viết lên hai bài thánh ca Thánh Thể có lẽ là tuyệt vời nhất, trong đó có bài thánh ca mà chúng ta đang đề cập.

Theo thông lệ, theo truyền thống, trọn bài thánh ca Pange Lingua thường được hát trong ngày lễ kính Mình Máu Thánh. Ngày nay, bài Tantum Ergo trong thực tế đã đóng vai như một bài hát chính trong phụng vụ Rôma, cụ thể là trong các buổi Chầu Thánh Thể.

2. O, Salutaris Ostia

Bạn thấy chứ? Đây là một bài thánh ca khác của thánh Tôma Aquinô! Bài thánh ca này, giống như bàiTantum Ergo, thực ra chỉ là hai câu cuối trong một bài thánh ca dài hơn, được hát trong lễ Mình Máu Thánh Chúa, là bài Verbum Supernum Prodiens.

Cùng với bài Pange Lingua, bài này được sáng tác theo đơn đặt hàng của giáo hoàng Urban IV, là vị giáo hoàng thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa năm 1264. Ngày nay, bài O Salutaris được phổ biến rộng rãi hơn, cũng vậy, thường là trong các buổi Chầu Thánh Thể.

3. Ave, Verum Corpus

Không! Bài thánh ca này thì không phải do thánh Tôma Aquinô sáng tác. Bài thánh ca Thánh Thể tuyệt vời thế kỷ XIV này thường được cho là sáng tác bởi giáo hoàng Innocent, nhưng thực ra chẳng ai, chẳng sử gia nào biết chắc là do đức Innocent II, III hay là IV. Rõ ràng đây chính là lý do chúng ta hay dùng bản phóng tác của Mozart (và không cần phải nói thêm gì nữa, nó thật phiêu linh hấp dẫn!)

Trong phụng vụ tiền công đồng Trent (tức là phụng vụ trước cuộc cải tổ phụng vụ do công đồng Trent chủ trương, thế kỷ XVI), bài thánh ca này được hát lên khi vị chủ tế cung giương Mình Máu Thánh Chúa trong các thánh lễ. Ngày nay, bài Ave Verum thường được hát lên đặc biệt trong các lễ mừng, các buổi cử hành phụng vụ Mình Máu Thánh Chúa, tại một số quốc gia, nó thậm chí còn được hát trong Mùa Giáng Sinh nữa.

Trí tuệ cổ xưa trong việc nhận rõ tính cách con người

truy tìm tính cách con người

Rất khó để hiểu một vài người khi hành vi của họ có thể thay đổi theo các hoàn cảnh khác nhau; Tuy nhiên, tính cách thật sự của một người sẽ không thay đổi. Trí tuệ cổ xưa từ Trung Quốc có thể giúp chúng ta phân biệt tính cách thật sự của một người nào đó.

1. Bạn sẽ thấy tính cách thực của một người khi anh ta trở nên giàu có và quyền lực. Nếu anh ta vẫn khiêm tốn, lịch sự, và chú ý phép tắc, những phẩm chất này là một phần tự nhiên tính cách của anh.

2. Bạn sẽ biết một người đàn ông mạnh mẽ thông qua người mà anh ta ủng hộ. Anh ta sẽ đề xuất những người phản ánh đặc điểm của mình.

3. Bạn có thể hiểu biết về tính cách của một người giàu có bằng cách xem cách anh ta tiêu tiền – anh ta có giản dị như trước đây, anh ta tiêu tiền như thế nào, ở đâu, cho ai?

4. Một số người hứa hẹn rất nhiều, nhưng thực hiện rất ít – hành động mới thực sự quan trọng.

5. Bạn có thể nhận rõ tính cách của một người thông qua sở thích của anh ta.

6. Khi bạn lần đầu tiên gặp một ai đó, những gì anh ta nói hoặc làm không mang nhiều ý nghĩa. Sau khi quen biết trong một thời gian dài, có thể bạn sẽ thấy rằng suy nghĩ của anh ta khác xa so với trước đó. Coi chừng, thậm chí là trái ngược hoàn toàn, một người xấu tính!

7. Một số người nghèo, hoặc đến từ một gia đình nghèo. Nghèo không hẳn phản ánh tính cách của một ai đó; nếu anh ta sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội để đạt được một lợi thế nhỏ thì rất đáng để bạn quan ngại.

8. Đừng quan tâm nếu một số người có địa vị xã hội thấp hơn; phẩm giá là quan trọng hơn. Nếu anh ta có thể duy trì phẩm giá của mình, anh ấy có một nhân cách tốt.

10 ĐIỀU ĐÁNG LÀM MỖI NGÀY NGAY SAU KHI THỨC DẬY

Bạn khởi đầu một ngày mới như thế nào sẽ quyết định phần còn lại trong ngày của bạn. Nếu bạn thức dậy trễ, căng thẳng và vội vã, cố gắng hoàn thành xong bữa ăn trưa (và để lại một mớ hỗn độn đằng sau quá trình ấy), có lẽ nửa ngày còn lại của bạn cũng sẽ rất quay cuồng đấy. May mắn thay, có một số hoạt động đơn giản mà bạn có thể thực hiện ngay lập tức sau khi tỉnh giấc vào mỗi buổi sáng. Điều này có thể giúp bạn có một ngày với sự khởi đầu tốt lành và một tâm thái an hòa, nhưng tràn đầy năng lượng ở phía trước. Có lẽ bạn phải thức dậy sớm hơn mỗi ngày, tùy thuộc vào việc bạn dành cho bản thân bao nhiêu thời gian để chuẩn bị sẵn sàng vào buổi sáng. Hãy thử cho mình thêm một chút thời gian để không cảm thấy quá vội vã và bạn có thể thực hiện các bước sau đây với một cảm giác bình yên và tĩnh tại. Khi chuông báo thức reo hãy thức dậy ngay lập tức và bắt đầu một ngày mới – chứ không phải là “ngủ nướng” nhé!

1. Đừng kiểm tra điện thoại

Trong một báo cáo của IDC Research, từ năm 2013, có 63% trong số gần 7500 người được khảo sát nói rằng việc đầu tiên mà họ làm khi thức dậy vào buổi sáng là tìm kiếm điện thoại. Con số này đã lên đến 74% trong độ tuổi từ 18 đến 24. Thói quen này không phải là điều bạn nên làm, mà phải là điều bạn không nên làm mới đúng. Khi thức dậy, điện thoại không nên là thứ đầu tiên mà bạn tìm kiếm. Nếu bạn dùng nó để báo thức, đơn giản là hãy tắt nó đi và để qua một bên. Bạn không nên để điện thoại điều khiển cả ngày của mình, khi bạn nhìn thấy tin nhắn cần được trả lời và nhiều nhiệm vụ khác đang chờ được hoàn thành, bạn sẽ không thể dừng nghĩ về những điều đó. Bạn sẽ không có thời gian để nghĩ về việc bạn muốn một ngày của mình sẽ như thế nào. Theo dõi các tin tức của mạng truyền thông xã hội cũng chiếm mất của bạn một khoản thời gian khổng lồ mà lẽ ra bạn có thể dùng chúng một cách hữu ích hơn để đảm bảo cho bạn một ngày mới tốt đẹp nhất có thể.

2. Bổ sung nước

Một trong những điều quan trọng nhất bạn nên làm ngay khi thức dậy vào buổi sáng là uống nước. Qua một đêm, cơ thể của bạn trở nên mất nước, vì thế uống nước là một ý kiến sáng suốt trước khi làm hoặc ăn bất cứ thứ gì khác. Tôi thích để một lít nước chanh (nước chanh giúp bổ sung dinh dưỡng, kiềm cho cơ thể, và đốt cháy dịch tiêu hóa) trên đầu giường của mình vì thế điều đầu tiên tôi làm khi thức dậy là uống nó và bổ sung đầy đủ nước cho cơ thể.

3. Ghi nhật ký

Điều này có vẻ là một nhiệm vụ hơi khó khăn, nhưng thật ra nó vô cùng hữu ích và chắc chắn là không uổng phí thời gian của bạn. Vào mỗi buổi sáng bạn hãy thử viết 1-3 trang nhật kí ngay khi bạn thức dậy. Bạn có lẽ nghĩ, tôi chỉ vừa thức dậy, tôi có gì trong đầu để viết đây? Bạn có thể sẽ rất ngạc nhiên đấy! Điểm mấu chốt là viết bất cứ thứ gì và bất cứ điều gì bạn đang suy nghĩ. Có lẽ là một điều gì đó khiến bạn bực mình vào buổi tối hôm trước, như là lo lắng về một vấn đề nào đó với một đồng nghiệp hoặc về bài thuyết trình sắp tới chẳng hạn– bất cứ thứ gì, thậm chí là tôi không muốn làm điều này, cũng hãy viết nó xuống. Tôi nhận thấy rằng khi bạn để mọi thứ xuống và viết ra điều đầu tiên trong suy nghĩ của mình, điều đó có thể giúp bạn loại bỏ những suy nghĩ lặp đi lặp lại mà có thể quẩn quanh đầu bạn trong suốt cả ngày và chừa chỗ cho những ý tưởng sáng tạo nảy sinh.

4. Tưởng tượng

Dành một ít thời gian để hình dung trước một ngày sẽ như thế nào. Chứng kiến một ngày đầy tự tin của mình, thực hiện tốt các công việc và giao tiếp hiệu quả với mọi người xung quanh. Bạn có thể thực hiện nhiệm vụ này trong phòng tắm nếu bạn muốn.

5. Bài tập kéo căng/thư giãn

Kéo căng cơ thể của bạn ra là cực kì tốt và hãy làm điều đó đi, cảm thấy khá tốt đúng không nào! Sau một giấc ngủ dài, cơ thể chúng ta chắc hẳn sẽ được nhiều lợi ích từ việc kéo căng; điều này rất tuyệt cho những người mà không có thời gian để tập thể dục vào buổi sáng trước khi bắt đầu một ngày của họ. Hãy thực hành thói quen kéo căng cơ thể vào mỗi buổi sáng từ đơn giản đến vừa phải để nới lỏng các khớp xương và giúp tuần hoàn máu. Nếu bạn thích, có thể thực hiện một số động tác yoga để có được sự mạnh mẽ và tâm trí an hòa hơn.

6. Lên lịch cho một ngày của bạn

Dành ra 5 phút để ghi lại mọi thứ bạn muốn thực hiện trong một ngày. Bạn có thể phân biệt ra đâu là công việc của bạn và đâu là những việc lặt vặt cần làm. Cách này có thể giúp bạn biết trước được điều gì bạn cần phải làm và sau đó bạn có thể gạch bỏ mỗi nhiệm vụ khi bạn đã hoàn thành nó. Và tôi tin rằng chúng ta đều biết cảm giác khi mỗi công việc được gạch ra khỏi danh sách là tuyệt vời như thế nào đúng không!

7. Giải tỏa sự bí bách

Chơi một vài bản nhạc sôi động để thúc đẩy tâm trạng của bạn và thêm một vài điệu nhảy vào trong bước đi của bạn khi thực hiện công việc vào buổi sáng. Nếu bạn muốn bắt đầu một ngày mới tĩnh lặng hơn, hãy thử niệm một vài câu thần chú để mang bạn vào một khoảng không thư giãn.

8. Giữ mọi thứ sạch sẽ

Dành thêm một ít thời gian để dọn dẹp giường, rửa chén bát và lau dọn kệ bếp. Hãy cẩn thận trong mỗi hành động, bởi vì khi bạn dành đủ thời gian để làm việc một cách lý trí và tốt nhất trong khả năng của mình, bạn sẽ cảm thấy chúng không giống như những việc lặt vặt nữa, và bạn sẽ bắt đầu một ngày của mình như thể vừa mới hoàn thành một điều tuyệt vời.

9. Cười

Hầu hết chúng ta dành nhiều thời gian vào mỗi buổi sáng để đứng trước gương khi chúng ta sửa soạn chuẩn bị. Tại sao không mỉm cười với chính mình nhỉ? Lúc đầu bạn có thể cảm thấy hơi giả tạo và gượng ép nhưng như người ta vẫn nói, nụ cười dễ lây lan (thậm chí nếu bạn cười với chính mình). Có thể bạn cũng muốn lặp lại một số khẩu hiệu tích cực cho mình. Tôi muốn đề cập đến một số câu nói như: tự tin rồi đấy. Rất xứng đáng.Thật đáng yêu. Rất xinh đẹp. Nhưng bạn có thể tùy chỉnh những câu khen này theo bất cứ cách nào bạn muốn.

10. Nuôi dưỡng chính mình

Hãy tự nạp thêm năng lượng cho chính cơ thể của bạn. Ăn những thức ăn tốt cho sức khỏe để cung cấp cho cơ thể và đảm bảo bạn có đủ năng lượng cho cả ngày. Đầu tiên có thể ăn một ly sinh tố, tiếp theo là bột yến mạch hoặc bột granola.

Như vậy đấy! Đây giống như một danh sách dày những thứ bạn cần thực hiện đầu tiên vào buổi sáng, nhưng bạn có thể bắt đầu chúng bằng việc thêm mỗi hoạt động vào mỗi ngày cho đến khi bạn có thể thực hiện tất cả, hoặc ít nhất bạn có thể thực hiện những cái mà bạn thấy có lợi nhất. Bằng việc đảm bảo rằng bạn có đủ thời gian cần thiết cho chính mình, bạn sẽ có thể bắt đầu một ngày mới với những ý định rõ ràng hơn trong suy nghĩ và tự tin rằng bạn có thể giải quyết bất cứ điều gì theo cách nghĩ của bạn.

5 Cái “Đừng” Của Cuộc Đời

Con người muốn được sống hạnh phúc, thanh thản mà trong tâm lại vẫn cứ ôm giữ , oán hận thì vĩnh viễn không thể nào đạt được. Hãy ghi nhớ 5 thứ “đừng” sau đây để cuộc sống không phải vướng bận điều gì nữa!

https://ci3.googleusercontent.com/proxy/P5gkFH03kZ7XExX7VOlxPNAIjvh4XgLkWG70FwHoySnQyZklaGG1m4vi7RY6KWeYjpm_CwSWx_5DYVEsddWHH3BI74WNHoXDhAgO=s0-d-e1-ft#http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/2564.jpg
Có tiền đừng keo kiệt, có phúc đừng chờ đợi.

Cái đừng thứ nhất: Có tiền đừng keo kiệt 

Tiền khi sinh chẳng mang theo đến, khi tử chẳng mang theo đi. Sức khỏe mới là thứ quan trọng hơn nhiều, có sức khỏe thì mới có tất cả.

Trong dân gian có câu nói: “Không sợ kiếm ít tiền, chỉ sợ chết sớm”. Có sức khỏe thì ngại gì không kiếm được tiền. Vì sức khỏe, khi nào cần chi tiêu thì hãy chi tiêu, có tiền đừng keo kiệt.

Cái đừng thứ hai: Có phúc đừng chờ đợi 

Con cháu đều có phúc của con cháu, đừng quá vì con cháu mà biến mình thành thân trâu ngựa. Nên danh thời gian hưởng thụ cuộc sống, đừng vì con cháu mà làm việc quá sức, làm cố quá là sát thủ nguy hiểm nhất của sức khỏe.

https://ci5.googleusercontent.com/proxy/Tn9ChBp6DgrybIHwB9Mvw69IGuVt5v96yY1N90toaj4QY2WNdC13LUcghAWWXw-8TxixYTokVpvEPDIX5iRGIrBqRY3K1XVQtHKv=s0-d-e1-ft#http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/3349.jpg
Con cháu đều có phúc của con cháu, đừng quá vì con cháu mà biến mình thành thân trâu ngựa.

Cái đừng thứ ba: Có tình yêu đừng buông bỏ 

Cuộc đời thật ngắn ngủi, tình yêu lại không dễ tìm kiếm, cho dù yêu hay được yêu đều là duyên phận, đều nên đón nhận, ngày hôm nay bạn buông bỏ, thì kiếp này nó sẽ không bao giờ đến với bạn nữa.

Cái đừng thứ tư: Tức giận đừng để trong lòng 

Trong cuộc đời, ai cũng có thể phải gặp những chuyện khó khăn hay không vừa ý, đừng nên vì thế mà “nộ khí xung thiên”. Tức giận là tồn tại khách quan, không nên giữ ở trong lòng, nín thở thì khí sẽ ứ tắc, khí ứ tắc thì sẽ sinh bệnh.

Gặp phải những sự việc khiến ta tức giận, hãy tìm người để khai thông nó, thổ lộ ra hết, như vậy sẽ gỡ bỏ nó nhanh hơn, nội tâm sẽ yên bình trở lại.

Bạn bè chính là công cụ “thông tức khí” tốt nhất, cũng là nguồn động lực, khích lệ tinh thần, tiếp thêm sức mạnh tốt nhất cho bạn.

https://ci3.googleusercontent.com/proxy/E1aa1NJr4KzAHJ1HyiwG1TlZh2WVYehBjscdMqHKbI1UV-ZPPazbzCL_v8o424QpfbEX2Y4rjq_Xvx5sMcby-k0LYDy9Kv2Ifw2BKw=s0-d-e1-ft#http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/11439.jpg
Hãy làm cho mỗi ngày trong cuộc đời của bạn là một ngày vui sống.
Cái đừng thứ năm: Có thù hận đừng ghi nhớ 

Lòng dạ khoáng đạt, dùng thiện lương nhân ái để đối đãi, không để ý những chuyện nhỏ, gạt bỏ ân oán, cũng không để thù hận trong lòng. Hãy làm cho mỗi ngày trong cuộc đời của bạn là một ngày vui sống.

Người xưa sống được trường thọ vì họ có “tam bất thức”, chính là không cần biết 3 điều, không quan tâm ân oán, không quan tâm tuổi tác, không quan tâm bệnh tật.

Hãy rèn luyện những điều này để sống thật vui vẻ nhé!

Giải thưởng điện ảnh Mirabile Dictu 2016: Phim “Poveda” được trao giải phim hay nhất

 

Mirabile Dictu, Liên hoan Phim Công giáo Quốc tế lần thứ bảy (năm 2016) đã diễn ra từ ngày 20 đến 23 tháng Sáu vừa qua tại khách sạn Palazzo Cardinal Cesi ở Vatican.

Kết quả, giải phim ngắn hay nhất được trao cho phim “Xưng tội” của cha Johnn La Raw (Hàn Quốc). Bộ phim nói về một giáo dân xưng tội với một linh mục trẻ. Nhiều năm trước người ấy gây tai nạn chết người vì lái xe trong tình trạng say rượu, sau đó đã bỏ trốn. Tiếng kêu khóc của đứa con của người bị nạn khi ấy khiến cho hối nhân luôn bị lương tâm cắn rứt trong suốt những năm tháng lẩn trốn cảnh sát. Điều người ấy không ngờ là đứa con ấy sau này lớn lên và trở thành một linh mục, chính là vị linh mục đang giải tội cho mình.

Trong hạng mục phim hay nhất, giải thưởng về tay nhà sản xuất bộ phim “Poveda” của đạo diễn Pablo Moreno (Tây Ban Nha). Đây là tiểu sử cuộc đời của Thánh Pedro Poveda, một linh mục Tây Ban Nha đã nỗ lực nhằm cách mạngviệc giáo dục cho các phụ nữ và trẻ em thiệt thòi trong những năm 30 của thế kỷ trước. “Những người anh chị em của chúng ta thiếu thốn rất nhiều và nay là lúc chúng ta phải nhìn đến những người yếu đuối, đói khát, trần truồng, nhữngtrẻ em không được đến trường”.

Đạo diễn Peter Schreiner (Áo) giành giải đạo diễn xuất sắc nhất với bộ phim “Lampedusa”, nội dung phim là cuộc đời của một người tị nạn châu Phi sau khi đến được đảo Lampedusa của Italia.

Phim tài liệu hay nhất dành cho phim “Một cuộc đời không hề uổng phí” của Krzysztof Tadej (Ba Lan), nói về hai vịthừa sai tử đạo người Ba Lan đã bị giết ở Peru bởi Sendero Luminoso (Con đường Sáng), tức Đảng cộng sản của quốc gia này.

Giải của Tổ chức Capax Dei được trao cho  phim “Kateri” của James Kelty (U.S.A.). Phim kể chuyện cuộc đời của Thánh nữ Kateri Tekakwitha, là người bản địa đầu tiên của châu Mỹ được tuyên thánh năm 2012, do Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI.

Giải thành tựu trọn đời được trao cho ông Bibi Ballandi, người Ý, là một nhà sản xuất truyền hình và người phát hiện những tài năng lớn; ông có khả năng hướng các nghệ sĩ đến với đức tin.

Liên hoan phim Mirabile Dictu (tiếng Latinh: Thật tuyệt vời để kể lại) được thành lập năm 2010 do sáng kiến của bàLiana Marabini dưới sự bảo trợ của Hội đồng Toà thánh về Văn hóa, nhằm mục đích trình bày Giáo hội theo một viễn tượng mới: vừa hấp dẫn vừa theo truyền thống. Các bộ phim dự thi có một yếu tố chung là cổ vũ các giá trị đạo đức phổ quát và các hình mẫu tích cực.

Các giải thưởng của Mirabile Dictu –­“Il Pesce d’Argento” (Con cá bạc), lấy cảm hứng từ biểu tượng ban đầu của Kitô giáo–, được coi là giải “Oscar” của điện ảnh Công giáo. Giải nhìn nhận những tác phẩm điện ảnh được lấy cảm hứng từ Kitô giáo cả về đề tài lẫn cách thể hiện.

Chủ tịch của Liên hoan phim Mirabile Dictu, bà Liana Marabini, là một nhà sản xuất, đạo diễn và nhà xuất bản. Bà dành tâm huyết cho công việc nghiên cứu lịch sử Giáo hội, và đặc biệt quan tâm đến ngôn ngữ tôn giáo và truyền thông, là điều thường thấy trong những bộ phim do bà sản xuất và các sách do bà xuất bản.

Ðức Thánh Cha Bênêđíctô XVI và Ðức Mẹ Maria

 

Trong Tháng Hoa này, một tháng trong năm được Giáo Hội đặc biệt dành dâng kính Mẹ Maria, chúng ta hãy hợp lòng cùng toàn thể các kitô hữu khắp nơi trên thế giới, cùng dâng lên Mẹ những bó hoa thiêng liêng của cuộc sống chúng ta, đó là : Việc siêng năng xưng tội, xem lễ, sửa đổi các thói hư tật xấu, siêng năng đọc kinh lần hạt Mân Côi chung trong gia đình và tư riêng, làm phúc bố thí giúp kẻ nghèo đói, bệnh tật, v.v… để tỏ lòng yêu mến Mẹ Maria một cách cụ thể.

 

Ðể thêm lòng sống đạo một cách hăng hái, sốt sắng hẳn hoi, chúng ta hãy nhìn lên gương lòng tôn sùng Mẹ Maria của Ðức Thánh Cha Bênêđíctô XVI. Với những dòng sau đây, hy vọng sẽ giúp được cho quý ông bà và tất cả anh chị em trong các cộng đoàn thêm thâm tín hơn về lòng yêu mến và tôn sùng Mẹ Thiên Chúa.

 

Sau khi lên ngôi Giáo Hoàng được sáu tháng, Ðức Thánh Cha Bênêđíchtô đã đi hành hương lần đầu tiên một thánh địa kính Ðức Mẹ ngoại thành Vatican, đó là trung tâm hành hương Mentorella, nằm vào phía đông nam thành phố Roma, được dâng kính « Ðức Mẹ Ban Ơn ». Tuy cuộc hành hương chỉ kéo dài nửa ngày mà thôi và cũng không được các báo chí quan tâm cho lắm. Nhưng qua hành động của ngài, Ðức Thánh Cha đã tỏ lòng tôn kính và tin tưởng phó thác toàn sứ mệnh chủ chăn Giáo Hội của ngài cho sự bầu cử và chở che của Mẹ Maria.

 

Ngay trong ngày 20.04.2005, trong bài giảng đầu tiên tại Nhà Nguyện Sixtin, ngay khi vừa được bầu vào chức vị kế nhiệm Thánh Phêrô, Ðức Thánh Cha Bênêđíctô đã đặt để và phó thác sứ mệnh phụng sự Chúa Kitô của ngài trong tay nhân lành của Mẹ Thiên Chúa với những lời tha thiết như sau :

 

“Khi con hoàn toàn dấn thân phục vụ Giáo Hội, con chỉ muốn phụng sự một mình Ðức Kitô mà thôi. Ðể giữ vững được nguyện ước này, con xin kêu nài sự bầu cử đầy tình mẫu tử của Ðức Trinh Nữ Maria : Trong tay Mẹ, con xin phó thác cả hiện tại và tương lai của con cũng như của Giáo Hội.”

 

  1. Càng thêm tuổi càng thêm lòng yêu mến Mẹ Thiên Chúa :

 

Dư luận thường cho rằng giáo sư thần học uyên bác Josef Ratzinger – tên đời của Ðức Bênêđíctô – không có được một lòng sùng kính nồng nhiệt đối với Mẹ Thiên Chúa một cách đặc biệt, chẳng hạn như Ðức Gioan Phaolô II. Thế nhưng, trong cuộc phỏng vấn được dành cho phóng viên Peter Seewald với câu hỏi : Ðức Maria có tương quan thế nào đối với cá nhân ngài, Ðức Hồng Y Tổng trưởng Thánh bộ Ðức Tin đã trả lời : “Khi tôi càng có tuổi, thì càng cảm thấy Mẹ Thiên Chúa trở nên quan trọng và gần gũi tôi hơn!”

 

Và bây giờ trong cương vị Giáo Hoàng, Ðức Bênêđíctô đã cho chúng ta cảm nhận được sự gần gũi với Mẹ Thiên Chúa tăng trưởng cụ thể như thế nào. Vâng, trong bài nói chuyện của ngài vào buổi trưa đọc kinh truyền tin vào ngày 30.10.2005, Ðức Thánh Cha đã nhắc bảo các tín hữu : “Chúng ta hãy luôn dành cho Mẹ Maria một chỗ trọng tâm trong lòng chúng ta. Qua Mẹ, tất cả chúng ta đều nhận ra được mình là con Thiên Chúa. Nơi Mẹ, chúng ta học được lòng trông cậy. Với Mẹ, chúng ta học được đức tin và sự cầu nguyện. Anh chị em hãy để Mẹ Maria dẫn đưa tới cùng Chúa Kitô!”

 

Ðức Hồng Josef Ratzinger đã lớn lên trong môi trường thuần Công Giáo và có lòng sùng kính Mẹ Maria của tiểu bang Bayern. Trong cuốn sách đối thoại của nhà văn Peter Seewald “Gott und die Welt” – Thiên Chúa và thế giới, Ðức Hồng Y Ratzinger đã nói : “Ngoài các ngày lễ phụng vụ về Ðức Mẹ, thì các giờ chầu kính Ðức Mẹ, tháng Mân Côi, các trung tâm hành hương, nói chung là phong trào đại chúng sùng kính Mẹ Maria, rất có ý nghĩa đối với tôi!”

 

  1. Ðức Hồng Y Ratzinger và Fatima :

 

Không chỉ trung tâm hành hương kính Ðức Mẹ nỗi tiếng ở Altöttingen thuộc tiểu bang Bayern, mà Ðức Hồng Y thường đến kính viếng, nhưng ngài còn đi hành hương đến các trung tâm hành hương kính Ðức Mẹ khác trên khắp thế giới và nhất là ở Fatima. Ở đây, ngài đã nói chuyện với nữ tu Lucia, một trong ba trẻ đã được xem thấy Ðức Mẹ hiện ra vào năm 1917. Sau cuộc gặp gỡ với chị Lucia, Ðức Hồng Y Ratzinger đã tường thuật : “Sứ điệp Fatima hoàn toàn đơn sơ. Và chị Lucia đặt nặng giá trị trên sự đơn sơ đó, và thực ra ở đây chỉ liên quan đến vấn đề đức tin, lòng trông cậy và tình bác ái, chứ không quan hệ đến những điều thường được đăng tải khác.”

 

Và nay, trong cương vị Giáo Hoàng, Ðức Thánh Cha Bênêđíctô cho rằng những lần hiện ra chính thức của Mẹ Maria “không phải là để đặt ra cho chúng một điều gì khác song song với Phúc Âm”, “những lần hiện ra của Mẹ Thiên Chúa không để làm thoả mãn những tò mò, những cảm xúc hay những gì tương tự, nhưng là đưa chúng ta trở lại với điều đơn sơ và chính yếu, mà chúng ta thường có khuynh hướng dễ bỏ qua. Ngay trong thời đại hôm nay, với sự phức tạp rắc rối của những vấn đề của chúng ta, Kitô giáo thường đã trở nên quá phức tạp đối với chúng ta, đến nỗi khiến chúng ta như thể đang đứng trước bao cây cối um tùm rậm tạp và không còn nhìn thấy được rừng nữa. Vấn đề chính ở đây là nhắm đạt tới cái trọng tâm đơn sơ, không phải đạt tới bất cứ điều gì khác, nhưng đạt tới điều chủ yếu, đạt tới sự thống hối ăn năn, đạt tới đức tin, niềm hy vọng và đức bác ái!”

 

Vào năm 2000, khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho phép công bố bí mật thứ ba của Fatima, ngài đã ủy nhiệm cho Ðức Hông Y Josef Ratzinger soạn thảo lời cắt nghĩa giải thích về bí mật đó. Vì thế, Tổng trưởng Thánh bộ Ðức Tin lúc bấy giờ đã tiếp cận và đào sâu những sự kiện xảy ra năm 1917 tại đồi Cô-va Ðà I-ri-a. Và ngài đã kết luận : “Toàn bộ biến cố huyền nhiệm là một lời mời gọi khẩn trương đến sự tự do của con người, là hãy chỉnh đốn lại cuộc sống và nhờ thế có thể thay đổi được cục diện lịch sử; đó là điều mà lời mời gọi ở Fatima và Sách Khải Huyền cùng nhắm tới. Nếu sau cùng Ðức Giáo Hoàng thoát chết được, người ta có thể coi sự kiện đó như dấu chỉ muốn nói lên rằng : Qua lời cầu nguyện, cục diện lịch sử có thể được thay đổi.”

 

  1. Ðức Bênêđíctô phó thác vào Mẹ Maria

 

Việc Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã liên kết sứ vụ Linh mục của ngài với Mẹ Maria như thế nào, người ta có thể nhận thấy được một cách rõ rệt trong suốt Ðại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2005 tại Köln. Khi ngài gặp gỡ các chủng sinh tại nhà thờ St. Pantaleon, ngài đã khuyến khích tất cả các chủng sinh hãy tìm đến với Chúa Giêsu qua Mẹ Maria : “Khi tới Bét-lê-hem, Ba Vua đã đi vào nhà và đã nhìn thấy Hài Nhi và Ðức Maria, Mẹ Hài Nhi; bấy giờ họ liền quì gối và sấp mình thờ lạy Hài Nhi (Mt 2,11). Ðó chính là giây phút quan trọng đã từng được mong đợi : Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu ! ‘Họ đi vào nhà’ : Chắc chắn rằng ngôi nhà được nói ở đây phải hiểu là Giáo Hội. Ðể gặp gỡ được Chúa Cứu Thế, người ta bắt buộc phải vào trong nhà, tức Giáo Hội. Trong suốt thời gian đào tạo ở Ðại Chủng Viện, người chủng sinh trẻ phải luyện tập cho mình một cách đầy đủ ý thức được sự trưởng thành hết sức cần thiết : Ðó là thầy không còn nhìn Giáo Hội ‘từ ngoài vào’, nhưng phải thật sự cùng rung cảm với Giáo Hội ‘từ bên trong’ như là ‘nhà’ của mình vậy, bởi vì Giáo Hội là nhà của Ðức Kitô, nơi cư ngụ của ‘Ðức Maria, Mẹ Người’. Và bởi vì Mẹ đã chỉ cho thầy Chúa Giêsu, Con của Mẹ, giới thiệu Người cho thầy và có thể nói được là giúp thầy nhìn thấy, động chạm và ôm được Người vào trong vòng tay mình. Mẹ Maria dạy cho thầy biết chiêm ngắm Chúa Giêsu bằng đôi mắt của con tim và biết sống bởi Người. Trong mỗi giây phút của cuộc đời chủng sinh người ta có thể cảm nghiệm được sự hiện diện đầy yêu thương như thế của Mẹ Thiên Chúa, Ðấng hằng dẫn đưa mỗi người đến gặp gỡ Ðức Kitô trong những giờ phút lặng lẽ của sự nguyện gẫm. Trước hết, Mẹ Maria giúp gặp gỡ được Chúa trong Phép Thánh Thể, khi Người trở nên lương thực hằng ngày của chúng ta qua lời Người và qua bánh đã biến thành Thân Mình Người… Các con hãy luôn luôn nhớ đến lời Chúa Giêsu : ‘Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy’ (Ga 15,9). Vâng, nếu các con ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu, các con sẽ mang lại nhiều hoa trái. Không phải các con đã chọn Người, nhưng Người đã chọn các con (x. Ga 15,16) : Ðó chính là mầu nhiệm của ơn gọi và của sứ mệnh các con ! Nó được giữ kín trong trái tim vẹn sạch của Mẹ Maria; với tình mẫu tử, Mẹ luôn tỉnh thức giữ gìn mỗi người trong các con. Vậy, các con hãy thường xuyên đầy lòng trông cậy chạy đến cùng Mẹ!”

 

Ðặc biệt từ ngày đảm nhiệm trọng trách chủ chăn của Giáo Hội hoàn vũ, Ðức Bênêđíctô đã luôn nhắn nhủ các tín hữu hãy luôn biết tin tưởng và phó thác mọi vui buồn của cuộc sống vào bàn tay mẫu tử từ nhân của Mẹ Maria. Trong huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền Tin trưa ngày Chúa nhật 11.02.2007, lễ kinh Ðức Mẹ hiện ra tại Lộ Ðức và đồng thời cũng là ngày quốc tế bệnh nhân, Ðức Thánh Cha đã nhắc bảo các tín hữu : “Hôm nay, là lễ Ðức Mẹ Lộ Ðức. Cách đây gần 150 năm, Mẹ đã hiện ra với một thôn nữ, thánh Bernadette, tự xưng là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cũng nhân dịp đó, Mẹ đã tỏ ra là một người mẹ từ ái đối với mọi con cái mình, nhắc nhở rằng những kẻ bé nhỏ, nghèo hèn là nhưng kẻ được Chúa mến thương và dành Nước Trời cho họ. Các bạn thân mến, Ðức Maria đã đồng hành với Con Mẹ bằng đức tin cho đến thập giá. Mẹ đã được thông hiệp một cách mầu nhiệm vào những đau khổ của Chúa Kitô. Mẹ không ngừng khuyên nhủ chúng ta hãy sống và chia sẻ một cách tin tưởng kinh nghiệm của sự đau khổ và bệnh tật, bằng cách dâng hiến chúng cho Chúa Cha, nhờ đó hoàn tất trên chính thân xác chúng ta điều còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô (x. Cl 1,24).”

 

Ðó là những tâm tình thánh thiện của Người Cha Chung của toàn thể Giáo Hội dành cho Mẹ Thiên Chúa, Ðấng mà ngài đã tin tưởng phó thác trọng trách coi sóc Giáo Hội của ngài. Chúng ta cũng hãy noi gương Ðức Thánh Cha mà tín thác và phó dâng tất cả mọi vui buồn trong cuộc sống hằng ngày – của tư riêng, của gia đình và của cộng đoàn – cho Mẹ Maria. Chúng ta hãy để Mẹ dìu dắt trên mọi bước đường và trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Vì cùng với Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ sa chân lỡ bước. Vì qua Mẹ, chúng ta sẽ đạt tới được nguồn an vui và hạnh phúc vĩnh cửu : Chúa Giêsu, Con Mẹ ! Per Mariam ad Jesum : Qua Mẹ Maria đến cùng Chúa Giêsu!