Home Blog Page 489

Kính Mừng Maria

 

Hoàng hậu Blanche xứ Castille nước Pháp đã phải đau buồn cùng cực, vì bà thành hôn mười hai năm rồi mà vẫn không có con. Khi đến thăm thánh Ðaminh, ngài khuyên hoàng hậu đọc kinh Mân Côi hằng ngày để xin Thiên Chúa ban cho diễm phúc được làm mẹ. Hoàng hậu trung thành theo lời khuyên của thánh nhân. Năm 1213 hoàng hậu hạ sinh hoàng nam đầu lòng. Ðó là hoàng tử Philip. Nhưng con trẻ chết ngay khi còn trứng nước.

Trước nỗi bất hạnh này, hoàng hậu vẫn không ngã lòng, không chút nao núng niềm tin. Trái lại, bà tha thiết van xin Ðức Mẹ cứu giúp. Hoàng hậu cũng phân phát nhiều tràng hạt Mân Côi cho các triều thần cùng dân chúng trong cả nước, bà xin họ tiếp lời cầu nguyện cho bà.

Năm 1215, qua sự bầu cử của Ðức Mẹ, Chúa đã nhậm lời cầu xin của bà, một vị hoàng tử chào đời. Hoàng tử này đã trở thành vinh quang cho nước Pháp, và là gương mẫu cho tất cả các hoàng đế Công giáo. Vị hoàng đế này sau đã trở thành một vị thánh. Ðó là vua thánh Louis.

* * *

Kể sao cho hết những ơn lành Mẹ Maria đã ban xuống cho nhân loại qua kinh Kính Mừng. Bởi vì kinh Kính Mừng là kinh mà Chúa Giêsu và Ðức Mẹ rất ưa thích.

Qua mỗi kinh “Kính Mừng”, chúng ta nhắc lại niềm vinh hạnh lớn lao mà Thiên Chúa đã ân ban cho Mẹ khi Người gửi sứ thần Gabriel đến kính chào Mẹ là “Ðấng đầy Ơn Phúc”.

Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã thường thi ân cho cả những kẻ nguyền rủa các Ngài, thì làm sao các Ngài có thể từ chối ban ơn lành cho những người con thảo hiếu hằng chúc tụng, tôn vinh và yêu mến các Ngài qua kinh Kính Mừng.

Thánh Bonaventura nói rằng: “Nếu ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng, thì Mẹ sẽ đáp lại ta bằng muôn ơn phúc”. Thật vậy, ngay khi thánh nữ Elizabeth nghe lời Mẹ chào, thì lập tức bà được đầy tràn Chúa Thánh Thần, và Gioan, con trong lòng bà liền nhảy mừng. Nếu chúng ta hằng ngày đọc kinh Kính Mừng cách thành kính sốt sắng để chào kính và chúc tụng Ðức Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được ơn phúc chan hòa, và niềm an ủi thiêng liêng sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con siêng năng lần hạt Mân Côi hằng ngày, cho chúng con được gia nhập đạo binh con cái thảo hiếu của Mẹ, để chúng con không ngừng tôn vinh, chúc tụng và yêu mến Mẹ bây giờ và mãi mãi. Amen.

 

Kinh Thánh Nói Về Mẹ

 
Mt1:12 16 12 Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven;13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do;14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút;15 Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp;16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.

Mt1:18-25  18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19Ông Giu-se, chồng , là người công chính và không muốn tố giác, nên mới định tâm bỏ cách kín đáo.20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.21 sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.”24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.25 Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

Lc1:26-56 26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng .”29 Nghe lời ấy, rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30 Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” 34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! ”
35 Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” 38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Đức Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat)

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

Lc2:1-20 1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri.3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít.5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai.6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.10 Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân:11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
14 “Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
15 Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.”16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

Mt2:7-23  7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.”9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
13 Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! “14 Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.15 Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
19 Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập,20 báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.”21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en.22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê,23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.

Lc 2:21-52 21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”,24và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người,28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

Bài ca “An Bình Ra Đi” (Nunc dimittis)

29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”

33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người.34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng;35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.

41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua.42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết.44 Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
46 Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi.47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.48 Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! “49 Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? “50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
51
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.

Lc8:19-21 19 Mẹ và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông.20 Người ta báo cho Người biết: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.”21 Người đáp lại: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”

Tiệc cưới Ca-na

Ga 2:1-121 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự.3 Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi.”4 Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.”5 Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
6 Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.7 Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! ” Và họ đổ đầy tới miệng.8 Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông.9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại10 và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.12 Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại đó ít ngày.

Ga6:41-44  41 Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.”42 Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống? “43Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.

Ga19:25-27 25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”27 Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.

Mt13:53-58  53 Khi Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó.54 Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?55 Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao?56 Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? “57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.”58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.

Công Vụ 1:12-14 12 Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát.13 Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê.14 Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.

Kh1:1-18 1 Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao.2 Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con.3 Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện.4 Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.5 Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người.6 Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.
7 Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến.8 Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa.9 Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.10 Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời:

“Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,
giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền,
và Đức Ki-tô của Người
giờ đây cũng biểu dương quyền bính,
vì kẻ tố cáo anh em của ta,
ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,
nay bị tống ra ngoài.
11 Họ đã thắng được nó nhờ máu Con Chiên
và nhờ lời họ làm chứng về Đức Ki-tô:
họ coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết.
12 Nào thiên quốc cùng chư vị ở chốn thiên đình,
hãy vì đó mà mừng vui hoan hỷ!
Khốn cho đất và biển, vì ma quỷ đã xuống với các ngươi,
nó giận điên lên vì biết rằng nó chỉ còn một ít thời gian.”

13 Khi Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai.14 Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa mạc, vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa thời, ở xa Con Rắn.15 Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đằng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi.16 Nhưng đất cứu giúp bà: đất há miệng ra uống cạn dòng sông từ miệng Con Mãng Xà phun ra.17 Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giê-su.18 Rồi nó đứng trên bãi cát ngoài biển.

Bản dịch do Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ Việt Nam

Tận hiến với Mẹ

Tận hiến với Mẹ
 
“Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38) chính là lời tận hiến của Đức Maria. Lời thưa Xin Vâng của Mẹ đã đưa Mẹ vào Mầu Nhiệp Nhập Thể. Lời đáp trả mau mắn ấy đã trao cả cuộc đời của Mẹ cho Thiên Chúa. Lời thưa ấy đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại, đưa Mẹ trong công cuộc Cứu Chuộc nhân loại. Và cũng chính lời thưa ấy Mẹ đã thánh hiến chính mình cho Thiên Chúa và từ đó Mẹ tham dự vào Mầu Nhiệm đặc biệt và Đồng Công Cứu Chuộc với Con Một Thiên Chúa cũng là con của Mẹ là Đức Giêsu Kitô.

Đức Maria, một cô thiếu nữ thôn quê, trước một biến cố Nhập Thể nhiệm mầu ấy, làm sao Mẹ dám thốt lên lời thưa Xin Vâng khi mà chính Mẹ còn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tuy nhiên, xuyên suốt Tin Mừng đã cho chúng ta thấy tại sao Mẹ lại mạnh dạn thưa lên lời Xin Vâng như vậy:

Trước hết, Mẹ cảm nghiệm được ơn thiêng của Thiên Chúa: Khi đó Đức Maria mới chỉ là một cô bé như bao thiếu nữ khác, tuy rằng lúc đó Mẹ đã ước ao được dâng trọn chính mình trong đời sống thánh hiến. Tuy nhiên, chính thời điểm đó, lời Sứ thần phán với Mẹ xem ra quá “ảo tưởng”, như một “câu chuyện cổ tích” hay lời đùa giỡn, đặc biệt là đối với một cô thôn nữ thì lại càng ly kỳ hơn. Ấy vậy mà Đức Maria vẫn cảm nhận được điều gì đó ngang qua lời Sứ thần truyền, để rồi thốt lên một cách tự nhiên và phó thác, không chút băn khoăn, nao núng.

Chính Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cho công cuộc Cứu Độ nơi Con Một của Người. Hay nói cách khác, chính Đức Maria đã cảm nghiệm được ân huệ thiêng liêng mà Thiên Chúa muốn Mẹ cộng tác vào công trình Cứu Chuộc. Cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa đang muốn nơi Mẹ, nên  Đức Maria đã mau mắn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa với cả đời “Xin Vâng”.

Tiếp đến, Mẹ luôn tin tưởng, cậy trông, phó thác: Một khung cảnh “kỳ lạ” diễn ra trong chốc lát nhưng với một đức tin mạnh mẽ và nhờ ơn Chúa Thánh Thần thác động, Đức Maria đã tháp nhập chính mình vào Mầu Nhiệm Nhập Thể. Vì Mầu Nhiệm nên “lạ kỳ” đến như vậy, cho nên con người khó không có thể hiểu hết được. Và càng khó khăn hơn với Đức Maria, một cô thôn nữ miền quê, thì điều đó càng khó chấp nhận. Tuy nhiên, với một đời sống đức tin trỗi vượt, một niềm tin tưởng, phó thác, Đức Maria đã mau mắn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. “Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền” lời xác tín mạnh mẽ Mẹ thưa lên với sứ thần cũng chính là lúc Mẹ trao ban chính mình cho Thiên Chúa, tất cả con người, cả thân xác lẫn tình thần của Mẹ đã thuộc trọn về Ngài.

Những gì Đức Maria đã làm cho thấy Mẹ luôn đặt một niềm tin tưởng sắt son, lòng phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Bởi thế Mẹ được gọi là “Mẹ của những kẻ tin”. Đức tin của Mẹ là một “biểu tượng”, một minh chứng và là một mẫu gương cho chính mỗi người chúng ta ngày hôm nay.

Mẹ hằng Xin Vâng trong mọi hoàn cảnh: Cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, luôn tin tưởng, cậy trông vào Ngài đã giúp cho Đức Maria luôn Xin Vâng trong mọi hoàn cảnh. Nhìn lại hành trình dương thế của Mẹ, cuộc đời Mẹ như gói gọn trong hai tiếng “Xin Vâng”. Trong những hoàn cảnh đi đát từ khi Mẹ nhận lấy Ngôi Lời Nhập Thể, trải qua những gian nan thử thách, những đau khổ đến tột cùng “một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà” (Lc 2,35), nhưng Mẹ vẫn hằng Xin Vâng và “hằng ghi nhớ những kỉ niệm ấy và suy nghĩ trong lòng” (Lc 2,19).

Chúa hằng ở cùng Mẹ, hay nói cách khác, Mẹ vẫn luôn đón nhận tất cả những gì xảy đến với Mẹ xuất phát từ chính tình yêu của Thiên Chúa dành tặng. Lời Xin Vâng năm xưa và hằng ngày trong cuộc đời của Mẹ đã đưa Mẹ lên một “tầm cao” mới trong ân nghĩa với Chúa. “Xin Vâng” lời xác tín một cách hoàn toàn và phó thác trọn vẹn cuộc đời Mẹ cho Thiên Chúa. Một lần nữa Mẹ xứng đáng với danh hiệu “Mẹ của các kẻ tin”.

Lễ nhớ Maria Nữ Vương, Nữ Vương của sự khiêm nhường, phục vụ. Nữ Vương của sự tin tưởng, phó thác. Nữ Vương của sự thông ban ơn Chúa… Dường như tất cả muốn gióng lên một lời mời gọi da diết cho con cái Mẹ, hãy học nơi Mẹ để được nên trọn lành.

Đối với con đường ơn gọi, chúng ta cần biết cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa nơi chính mình, trong mọi biến cố cuộc đời. Để từ tình yêu Thiên Chúa dành riêng cho chúng ta, như  Đức Maria, chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác cuộc đời, con đường, tương lai của mình trong vòng tay yêu thương của Chúa.

Nhờ đó, Thiên Chúa có thể chèo lái lời đáp trả của chúng ta khi Ngài chọn gọi. Ngài hướng dẫn con đường mỗi người đã chọn lựa, nâng đỡ chúng ta từng bước trên hành trình tiến về Đất Thánh. Để được như vậy, chúng ta phải cùng với Đức Maria chúng ta thưa lên hai tiếng “Xin Vâng”, xin vâng hoàn toàn nơi thánh ý Chúa, đón nhận mọi hoàn cảnh, chấp nhận mọi khó khăn thử thách và trao ban trọn vẹn con người, tâm hồn cho Ngài.

Cuộc sống ngày càng phức tạp, con đường ơn gọi cũng gian nan, khốn khó nhiều hơn. Phận người lại mỏng giòn yếu đuối, nên khó để có thể tránh khỏi được những vấp ngã, thất vọng, những chán nản, mất niềm cậy tin. Dẫu vậy, chúng ta vẫn luôn có Chúa và Mẹ hằng ở cạnh bên, cùng Mẹ đến với Chúa thì sẽ Ngài sẽ nâng đỡ và thánh hóa mọi sự nên tốt lành. Vì như lời Sứ thần hứa với Mẹ hôm nay:“Đối với Thiên Chúa, không gì là không thể làm đươc” (Lc 1,37).

Ước mong, chúng ta luôn đón nhận tất cả mọi biến cố trong đời như là quà tặng mà Thiên Chúa dành tặng, để vượt qua tất cả những biến cố trong niêm vui và bình an. Và lấy tất cả những hy sinh, phục vụ, những đau khổ, thử thách mà mình vượt qua làm của lễ dâng lên Thiên Chúa. Đó là món quà quý giá nhất mà Thiên Chúa muốn nơi mỗi người.

Con đường ơn gọi sẽ luôn được nâng đỡ và bình an khi có Mẹ đồng hành. Bởi vậy, chúng ta hãy luôn tìm đến Mẹ, học nơi Mẹ, gửi gắm cho Mẹ. Lấy Mẹ làm gương sáng để noi theo, nhận Mẹ làm “xúc tác” cho ước vọng thánh hiến và xin Mẹ làm cầu nối với Chúa trên con đường tận hiến.

 

LĐN

Toàn Bộ Kinh Thánh Về Mẹ Maria

Mt1:12 16 12 Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven;13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do;14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút;15 Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp;16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.

Mt1:18-25  18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng , là người công chính và không muốn tố giác , nên mới định tâm bỏ cách kín đáo.20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.21 sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.”24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.25 Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

Lc1:26-56 26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng .”29 Nghe lời ấy, rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30 Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” 34Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! ”
35 Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” 38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Đức Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat)

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

Lc2:1-20 1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri.3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít.5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai.6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.10 Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân:11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
14 “Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
15 Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.”16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

Mt2:7-23  7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.”9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
13 Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! “14 Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.15 Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
19 Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập,20 báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.”21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en.22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê,23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.

Lc 2:21-52 21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”,24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.25Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người,28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

Bài ca “An Bình Ra Đi” (Nunc dimittis)

29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”

33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người.34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng;35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.

41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua.42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.43Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết.44 Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
46 Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi.47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.48 Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! “49 Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? “50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
51
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.

Lc8:19-21 19 Mẹ và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông.20 Người ta báo cho Người biết: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.”21 Người đáp lại: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”

Tiệc cưới Ca-na

Ga 2:1-121 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự.3 Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi.”4 Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.”5 Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
6 Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.7 Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! ” Và họ đổ đầy tới miệng.8 Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông.9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại10 và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.12 Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại đó ít ngày.

Ga6:41-44  41 Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.”42 Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống? “43 Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.

Ga19:25-27 25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”27 Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.

Mt13:53-58  53 Khi Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó.54 Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?55 Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao?56 Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? “57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.”58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.

Công Vụ 1:12-14 12 Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát.13 Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê.14 Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.

Kh1:1-18 1 Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao.2 Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con.3 Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện.4 Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.5 Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người.6 Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.
7 Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến.8 Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa.9 Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.10 Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời:

“Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,
giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền,
và Đức Ki-tô của Người
giờ đây cũng biểu dương quyền bính,
vì kẻ tố cáo anh em của ta,
ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,
nay bị tống ra ngoài.
11 Họ đã thắng được nó nhờ máu Con Chiên
và nhờ lời họ làm chứng về Đức Ki-tô:
họ coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết.
12 Nào thiên quốc cùng chư vị ở chốn thiên đình,
hãy vì đó mà mừng vui hoan hỷ!
Khốn cho đất và biển, vì ma quỷ đã xuống với các ngươi,
nó giận điên lên vì biết rằng nó chỉ còn một ít thời gian.”

13 Khi Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai.14 Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa mạc, vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa thời, ở xa Con Rắn.15 Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đằng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi.16 Nhưng đất cứu giúp bà: đất há miệng ra uống cạn dòng sông từ miệng Con Mãng Xà phun ra.17 Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giê-su.18 Rồi nó đứng trên bãi cát ngoài biển.

CÁC TÍN ĐIỀU VỀ MẸ MARIA

 

“Những lần Mẹ hiện ra” từ thế kỷ 19 là dấu hiệu thứ nhất chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria. Dấu hiệu thứ hai chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria, đó là, cũng từ thế kỷ 19 trở đi, ba tín điều về Mẹ Maria đã được Giáo Hôi chính thức tuyên tín. Trong khi đó, 18 thế kỷ trước, chỉ có một tín điều duy nhất về Mẹ là tín điều Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội tuyên tín vào năm 431 ở công đồng chung Êphêsô mà thôi.

Vào thời kỳ ấy, thời công đồng Êphêsô, có một vị linh mục tên Anastasiô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) của Mẹ, và chỉ công nhận Mẹ là Mẹ của Chúa Kitô (Khristotokos).Chính Nestôriô là thượng phụ Constantinôpôli năm 428 cũng chấp nhận như vậy, tức công nhận Chúa Kitô có hai Ngôi Vị, một thần linh và một nhân loại. Dựa vào bức thư thứ hai trong ba bức thư của thánh Giáo Phụ Cyrilô Alexandria gửi cho Nestôriô, các nghị phụ tham dự công đồng chung này, vào ngày 22-6-431, đã tuyên tín như sau:

“Không phải Ngôi Lời đã từ trời xuống ở với một phàm nhân được Trinh Nữ Thánh sinh ra đầu tiên; mà là, vì nên một với xác thể trong lòng (của Trinh Nữ Thánh), Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác thể, như là việc sinh ra theo xác thể của mình… Bởi thế, (các giáo phụ) đã không ngại gọi Trinh Nữ Thánh là ‘Mẹ Thiên Chúa’ (Theotokos). Điều này không có nghĩa là bản tính của Ngôi Lời hay Thiên Tính của Ngài đã được bắt đầu hiện hữu từ Trinh Nữ Thánh, mà là, vì Thánh Thể được sinh động bởi hồn thiêng, mà Ngôi Lời đã ngôi hiệp (kath’hupostasin) với chính mình, được sinh ra bởi Người, nên Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác thể” (TCF:148-149).

Và, cũng bắt đầu từ đó, Giáo Hội đã dạy cho con cái mình cầu nguyện cùng Mẹ:

“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.

Tuy nhiên, việc Giáo Hội tuyên tín Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, một tín điều duy nhất trong suốt 18 thế kỷ đầu của Giáo Hội, là một việc không thể nào không làm để chống lại những sai lầm của lạc thuyết Nestôriô, một lạc thuyết đã tác hại ghê gớm đến đức tin và phần rỗi đời đời của các tín hữu. Trong khi đó, từ bán thế kỷ thứ 19, trong vòng có 110 năm (1954-1964), Giáo Hội đã tự cảm thấy, (chứ không phải vì ngoại cảnh bắt buộc), đến lúc cần phải công bố thêm 3 tín điều về Mẹ nữa, đó là tín điều Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác và Mẹ Là Mẹ Của Giáo Hội.

TÍN ĐIỀU MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI.

Đức Thánh Cha Piô IX, bằng trọng sắc Ineffabilis Deus, đã long trọng tuyên bố tín điều này vào ngày 8/12/1854, (sau đó hơn 3 năm, ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã công nhận tín điều này khi hiện ra với chị thánh Bernadette tự xưng mình là “Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội”).

Với uy quyền của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, cũng như của riêng Ta, Ta công bố, tuyên ngôn và xác nhận tín điều được mạc khải bởi Thiên Chúa buộc mọi tín hữu phải tin vững vàng và trung kiên là “Rất Thánh Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu thai, nhờ đặc ân của Thiên Chúa toàn năng và công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì
vết của nguyên tội” (TCF:204).

TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI CẢ HỒN LẪN XÁC.

Qua tông hiến Munificentissimus Deus, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều này vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, 1-11-1950.Phải chăng, như ở Lộ Đức, Đức Mẹ đã hiện ra để xác nhận tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Thánh Cha Piô IX công bố thế nào, Mẹ cũng tỏ ra xác nhận tín điều Hồn Xác Lên Trời về Mẹ do Đức Thánh Cha Piô XII công bố như vậy, khi cho ngài thấy bốn lần, vào những ngày 30 và 31 tháng 10 và ngày 1 và 8 tháng 11 năm 1950 (TWTAF3:284-287), hiện tượng mặt trời nhẩy múa như ở Fatima ngày 13-10-1917 trước kia?

Đức Thánh Cha Piô XII đã ban bố tín điều này như sau:

“Ta tuyên xưng, công bố và xác nhận tín điều được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria trinh nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn lẫn xác của Người đã được đưa về trời trong vinh quang thiên quốc” (TCF:207).

TUYÊN XƯNG MẸ LÀ MẸ CỦA GIÁO HỘI.

Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong dịp kết thúc kỳ họp ba của công đồng chung Vaticanô II, cũng là dịp hiến chế về Giáo Hội Lumen Gentium được công bố, trước mặt toàn thể các nghị phụ của công đồng, đã chính thức tuyên bố:

“Ta mong muốn Mẹ Thiên Chúa phải được cả thế giới Kitô hữu tôn vinh và khẩn cầu hơn nữa bằng tước hiệu (Mẹ Giáo Hội) tuyệt dịu ngọt này” (CTFY:88).

Trong dịp chính thức tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội này, Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng lập lại việc hiến dâng toàn thể thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, việc hiến dâng đã được Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện hai lần, một vào ngày 31-10-1942 và một vào ngày 7-7-1952.

Đức Thánh Cha Phaolô VI đã lập lại việc hiến dâng này như sau:

“Ta đã quyết định gửi một đại diện đến Fatima vào một ngày gần đây để mang Bông Hồng Bằng Vàng đến Đền Thánh Fatima, nơi yêu qúi hơn bao giờ hết, chẳng những đối với nhân dân của nước Bồ Đào Nha diễm phúc… mà còn được tín hữu trên khắp thế giới Công Giáo nhận biết và tôn kính. Bằng việc làm này, Ta có ý muốn phú thác cả gia đình nhân loại, với những hoạn nạn và âu lo của họ, với những ước vọng thâm sâu và hy vọng tha thiết của họ, cho sự chăm sóc của Mẹ thiên đình” (CTFY:88).

Ngoài ra, trong Thời Đại Maria này, Giáo Hội, qua Đức Thánh Cha Piô XII, cũng đã thực hiện hai việc liên quan trực tiếp đến Đức Mẹ nữa, đó là việc ngài cho mừng lễ Trái Tim Đức Mẹ trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ cũng như lập lễ Đức Mẹ Nữ Vương, và việc ngài phong hiển thánh cho hai vị Thánh của Mẹ, thánh Louis Marie Grignion De Monfort ngày 20/7/1947, và thánh Catarina Labuarê ngày 27/7/1947.

Lễ Trái Tim Đức Mẹ:

Thật ra, theo văn thư Acta Apostolicae Sedis của thánh bộ Lễ Nghi ban hành ngày 4/5/1944, lễ Trái Tim Đức Mẹ đã được bắt đầu mừng từ thời Trung Cổ và được Giáo Hội chấp nhận vào đầu thế kỷ thứ 19. Đức Thánh Cha Piô VII (1800-1823) đã cho phép các giáo phận hay dòng tu nào xin mừng lễ Khiết Tâm Mẹ sẽ được cử hành vào ngày Chúa Nhật sau tuần bát nhật Lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Sau đó, Lễ Trái Tim Mẹ được lan rộng khắp nơi, và Đức Thánh Cha Piô IX (1848-1878) đã chính thức cho vào niên lịch phụng vụ hằng năm của Giáo Hội.

Cho đến ngày 24/10/1940, chị Lucia đã viết thơ trình lên Đức Thánh Cha Piô XII điều “yêu cầu” của Mẹ liên quan đến việc Mẹ sẽ làm cho nước Nga trở lại, và cuối thơ chị có xin Đức Thánh Cha cho mừng chung trong Giáo Hội hoàn vũ lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ như là một trong những lễ chính.

Phần Đức Thánh Cha Piô XII, cũng trong văn thư của thánh bộ Lễ Nghi trên đây, “để ghi nhớ cuộc hiến dâng này, (cuộc hiến dâng Giáo Hội hoàn vũ và cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ mà Đức Thánh Cha đã thực hiện ngày 31/10/1942), Ngài đã quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Lễ này sẽ được cử hành mỗi năm vào ngày 22 tháng 8, thay ngày bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu, với bậc lễ hạng nhì…” (TWTAF3:82-83).

Lễ Mẹ Nữ Vương:

Lễ Mẹ Nữ Vương được Đức Thánh Cha Piô XII lập trong Năm Thánh Mẫu, vào ngày lễ Đức Mẹ Thiên Chúa 11/10/1954. Qua bức thông điệp Ad Coeli Reginam, Đức Thánh Cha nhắc lại việc đội triều thiên cho Mẹ năm 1946 và quyết định:

“Ta ban hành và thiết lập Lễ Maria Nữ Vương, được mừng chung Giáo Hội hằng năm vào ngày 31/5”.

Cũng trong thông điệp này, Đức Thánh Cha còn đề cập đến:

“Việc hiến dâng loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ phải được lập lại trong ngày này… Với niềm tin tưởng hơn trước, mọi người hãy đến với ngai tòa tình thương và ân sủng của Nữ Vương và Từ Mẫu để xin trợ giúp trong cơn quẫn bách, ánh sáng trong lúc tối đen, và sức mạnh trong lúc đau thương khóc lóc…” (TWTAF3:395).

Sau Công Đồng Chung Vaticanô II, theo tinh thần canh tân phụng vụ, một số Lễ kính Đức Mẹ cũng được thay đổi, trong đó có lễ Trái Tim Mẹ và lễ Mẹ Nữ Vương. Lễ Mẹ Nữ Vương được dời xuống ngày 22/8 thay vì 31/5 hằng năm, và lễ Trái Tim Mẹ được dời lên ngày Thứ Bảy ngay sát Thứ Sáu lễ Thánh Tâm Chúa trong tuần lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa.

Thánh Louis Marie Grignion De Monfort (1673-1716)

Thánh nhân là vị thánh lập hai dòng tu cho Giáo Hội, một nữ và một nam. Dòng nữ là dòng Nữ Tử Đấng Khôn Ngoan, được lập năm “3, và dòng nam là dòng Thừa Sai Mẹ Maria (cũng gọi là dòng các Linh Mục Và Huynh Đệ Thánh Monfort). Ngài cũng là tác giả của tác phẩm thời danh Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria, một tác phẩm mà chính ngài đã tiên đoán về số phận của nó: “Tôi thấy trước một cách r ràng là những con mãnh thú sẽ dùng nanh vuốt qủi quyệt của chúng để sâu xé bản văn nhỏ bé này… hay, ít là dấu nó đi trong bóng tối vắng lặng nào đó không lộ ra được” (TDTM,114). Quả nhiên, mãi đến năm 1842, cuốn sách này mới được một linh mục dòng của ngài tình cờ tìm thấy trong một thùng sách cũ ở tu viện Laurent- sur-Sèvre.

Đức Thánh Cha Piô XII đã nói về ngài khi phong thánh cho ngài như sau: “Sùng Kính Mẹ Maria là sức mạnh mãnh liệt trong công cuộc tông đồ của ngài và bí mật tuyệt diệu nhất của ngài trong việc lôi kéo các linh hồn và ban Chúa Giêsu cho họ” (TDTM:v).

Thánh Catarina Labuarê (1806-1876)

Nữ Thánh Nhân là chị nữ tu dòng Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh-Sơn Phao-Lô, được Đức Mẹ hiện ra vào năm 1830 và trao cho 3 sứ mệnh, như Đức Thánh Cha Piô XII đã nói về chị trong dịp phong thánh cho chị ngày 27/7/1947, đó là: “Phục hồi lòng sốt sắng đã bị nguội lạnh trong hai hội dòng bác ái của chị; nhận chìm toàn thể thế giới vào trận lụt đầy những mẫu ảnh kim loại nho nhỏ là những gì chứa đựng các ơn xót thương của Đấng Vô Nhiễm Tội ban cho cả hồn lẫn xác; lập một hội đạo đức ‘Con Cái Mẹ Maria’ để bảo toàn và thánh hóa giới phụ nữ trẻ” (TWTAF3:108).

Hai Á Thánh Thiếu Nhi Fatima Phanxicô và Giaxinta Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong Chân Phước cho Hai Thiếu Nhi Fatima là Phanxicô và Giaxinta ngày 13/5/2000.

Những tín điều về Mẹ Maria gồm có: tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa, tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh, tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, tín điều Mẹ Maria Mông Triệu Cả Hồn Lẫn Xác, và tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ  Giáo Hội. Để có một cái nhìn tổng quát và đầy đủ các tín điều hay tước hiệu về Mẹ Maria, xin trưng dẫn toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội theo thứ tự dưới đây.

Tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa được Công Đồng Chung Ephêsô tuyên tín năm 431 là:

“Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (theotokos) (vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt)”.

(DS 252 hay “The Christian Faith” trang 149)

Tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh được Công Đồng Latêran tuyên tín năm 649, như sau:

“Khốn cho những ai không theo các vị Nghị Phụ thánh đức tuyên xưng một cách chân thực và xác đáng rằng Đức Maria, trinh nguyên và vô nhiễm, là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã thực sự thụ thai chính Thiên Chúa Ngôi Lời, Đấng được Thiên Chúa Ngôi Cha hạ sinh trước các kỳ thời, bởi Chúa Thánh Thần mà không cần đến hạt giống loài người, và đã sinh ra Người hoàn toàn không bị hư hại gì, tình trạng đồng trinh của Mẹ sau khi sinh con cũng không hề bị sứt mẻ”.

(DS 503 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 166)

Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Piô IX long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng:

“Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”.

(DS 2803 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 204)

Tín điều Mẹ Maria Mông Triệu Cả Hồn Lẫn Xác được Đức Piô XII long trọng tuyên bố bằng tông hiến “Munificentissimus Deus” ngày Lễ Kính Các Thánh, 1/11/1950, như sau:

“Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn, và để toàn thể Giáo Hội hân hoan phấn khởi; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi công bố, tuyên xưng và xác nhận như là một tín điều được Thiên Chúa mạc khải: Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”.

(DS 3903 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 207)

Tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội được Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố ngay trong buổi họp Công Đồng Chung Vaticanô II để ban hành Hiến Chế Tín Lý về Bản Chất Giáo Hội Lumen Gentium (Anh Sáng Muôn Dân) vào ngày 21/11/1964, như sau:

“Khi chúng ta xét đến những liên hệ chặt chẽ gắn bó Đức Maria và Giáo Hội, như những mối liên hệ này đã được diễn đạt hết sức rõ ràng trong Hiến Chế Công Đồng này, những mối liên hệ khiến chúng ta phán quyết, trong giây phút rất long trọng này đây, đặc biệt rất thích đáng để làm mãn nguyện một ước vọng, một ước vọng chúng tôi bộc lộ ở vào lúc kết thúc buổi họp cuối này, và cũng là ước vọng của rất nhiều vị Nghị Phụ, khẩn khoản yêu cầu là trong Công Đồng đây, vai trò từ mẫu mà Đức Thánh Trinh Nữ Maria thực hiện đối với dân Kitô Giáo cần phải được công bố bằng những từ ngữ rõ ràng. Vì lý do này, chúng tôi thấy rằng, trong cuộc họp công khai này, chúng tôi phải chính thức công bố tước hiệu mà Đức Trinh Nữ Maria cần được tôn kính, tước hiệu đã được đệ xin từ nhiều nơi trong Giáo Hội hoàn vũ, và cũng là một tước hiệu đối với chúng tôi đáng chấp nhận và thỏa lòng cách đặc biệt; vì tước hiệu này mang lại một cách xác thực tuyệt vời vị trí hiển nhiên xứng hợp với Mẹ Thiên Chúa trong Giáo Hội được Công Đồng này đã công nhận. Bởi thế, để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này”.

(trích dịch từ “Theotokos”, by Michael O’Carroll, C.S.Sp, Michael Glazier, Inc., third revised edition, 1988, trang 251)

Nếu căn cứ vào kiểu cách Đức Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội này thì có khác gì với lần Đức Piô IX công bố tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội và lần Đức Piô XII công bố tín điều Mẹ Maria Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác. Vì Đức Phaolô VI cũng dùng đến quyền bính tối cao của mình, chẳng những “công bố Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” mà còn “truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo” phải “kính tôn” Mẹ và “cầu nguyện” với Mẹ “bằng tên gọi rất ngọt ngào này” nữa. Và việc Đức Phaolô VI đã “công bố” và “truyền” làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa. Nếu “Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” được thẩm quyền tối cao của Giáo Hội công bố một cách long trọng chưa từng có như thế, thì điều công bố này lại có thể sai lầm được chăng, và có thể phủ nhận và không đáng tin chăng? Do đó, “Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội”, theo cách thức và ngôn từ công bố của Đức Phaolô VI, cũng có thể mang một tính chất quan trọng và thiết yếu như các Tín Điều Thánh Mẫu chính thức khác.

Bản Tuyên Xưng Đức Tin do Thánh Bộ Phụ Trách Tín Lý Đức Tin phác họa và phổ biến ngày 9/1/1989 cho các vị có trách nhiệm liên quan đến các chân lý đức tin và luân lý, có đoạn thứ hai về việc:

“Tôi phải lấy cả ý muốn lẫn trí khôn thuận phục các giáo huấn do Giáo Hoàng hay Giám Mục Đoàn công bố khi các ngài thực hành Huấn Quyền chính thức của mình, cho dù các ngài không có ý công bố những giáo huấn này bằng một hành động dứt khoát” (đoạn 2, Tông Thư Motu Proprio: “Ad Tuendam Fidem” của ĐTC Gioan Phaolô II, L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ, số 28/1550, 15/7/1998).

Nếu căn cứ vào đoạn thứ hai của Bản Tuyên Xưng trên đây, thì việc Đức Thánh Cha Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội, một tước hiệu nói lên chính thực tại của vai trò Mẹ Maria thực sự là Mẹ của Giáo Hội, cũng là một đối tượng của Đức Tin, như các Tín Điều Thánh Mẫu khác.

Giáo lý Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc, tuy chưa được Giáo Hội chính thức long trọng tuyên bố như các tín điều trên đây, tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô II cũng đã công nhận và trình bày vai trò cộng tác của Mẹ trong dự án cứu độ của Thiên Chúa cũng như trong công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, qua bài giáo lý (trong loạt 70 bài vào thời khoảng 6/9/1995-12/11/1997) về Mẹ, hôm Thứ Tư ngày 9/4/1997, như sau:

“Từ ngữ ‘cộng tác viên’ áp dụng cho Mẹ Maria đòi có một ý nghĩa đặc biệt. Việc các tín hữu cộng tác trong ơn cứu chuộc xẩy ra sau biến cố Canvê, một biến cố sinh hoa kết trái do nỗ lực nguyện cầu và hy sinh của họ. Còn Mẹ Maria đã cộng tác trong chính biến cố này và với vai trò làm mẹ; bởi thế, việc cộng tác của Mẹ bao hàm toàn thể công cuộc cứu độ của Chúa Kitô. Chỉ có một mình Mẹ đã được liên kết vào hiến tế cứu chuộc bằng cách này, một hiến tế mang ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Hiệp nhất với Chúa Kitô và tùy thuộc vào Người, Mẹ đã hợp tác để chiếm lấy ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Vai trò làm cộng sự viên của Đức Trinh Nữ bắt nguồn từ thiên mẫu chức của Mẹ… Việc cộng tác đặc thù của Mẹ Maria vào dự án cứu độ có một ý nghĩa như thế nào? Điều này cần phải tìm thấy nơi ý định đặc biệt của Thiên Chúa đối với Mẹ Chúa Cứu Thế, nhân vật mà vào hai trường hợp, một ở tiệc cưới Cana và một ở chân Thập Giá, Chúa Giêsu đã ngỏ lời như với một ‘Bà’ (x.Jn.2:4;19:26). Mẹ Maria đã liên kết trong công cuộc cứu chuộc như một người đàn bà. Tạo dựng nên con người ‘có nam có nữ’ (x.Gn.1:27), Chúa cũng muốn đặt một Tân Evà bên cạnh một Tân Adong trong việc cứu độ. Cha mẹ đầu tiên của chúng ta đã chọn con đường tội lỗi như là một cặp vợ chồng; Con Thiên Chúa và việc cộng tác của Mẹ Người cũng có nhau để tái thiết lập giòng giống loài người theo phẩm giá nguyên thủy của nó… Công Đồng đã nghĩ đến vấn đề tín lý này và nhận làm của mình khi nhấn mạnh đến việc đóng góp của Đức Trinh Nữ chẳng những vào việc hạ sinh Đấng Cứu Thế, mà còn vào sự sống của Nhiệm Thể Người nữa qua các thế hệ cho đến lúc ‘cánh chung’: nơi Giáo Hội Mẹ Maria ‘đã cộng tác’ (x.Lumen Gentium, đoạn 63) và Mẹ đã ‘cộng tác’ trong công cuộc cứu độ (cùng nguồn, đoạn 53)… Hơn nữa, Công Đồng Chung Vaticanô II trình bày Mẹ Maria chẳng những như ‘Mẹ của Đấng Cứu Chuộc thần linh’, mà còn là ‘cộng tác viên quảng đại một cách đặc biệt’, Mẹ ‘đã cộng tác bằng đức tuân phục của Mẹ, bằng đức tin, đức cậy và đức mến bừng cháy của Mẹ trong công cuộc của Chúa Cứu Thế’. Công Đồng còn nhắc lại rằng hoa trái cao qúi của việc cộng tác này là thiên chức làm mẹ phổ quát của Mẹ: ‘Vì lý do này, Mẹ là mẹ của chúng ta theo trật tự ân sủng’”

(L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ, số 16/1487, 16-4-1997, trang 7)

Đã có 500 vị giám mục, 40 vị hồng y và mấy triệu tín hữu, trong đó có Mẹ Têrêsa Calcutta, đồng ký tên đệ trình Đức Thánh Cha để xin ngài công bố tín điều Mẹ Maria Là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, Là Đấng Trung Gian An Sủng và Là Đấng Biện Hộ Cho Dân Chúa. Nếu Biến Cố Paris và Lộ Đức liên quan đến tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội thì tước hiệu và tác dụng thần năng vô địch của tước hiệu “Ta là Đức Mẹ Mân Côi” trong Biến Cố Fatima cũng rất có thể sẽ liên quan đến tín điều Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc. Biết đâu việc công bố Tín Điều Thánh Mẫu cuối cùng này nằm ở trong Bí Mật Fatima phần thứ ba, phần chỉ có Đức Thánh Cha được đọc, tức phần thuộc về phần nhiệm của riêng ngài, nên không một vị giáo hoàng nào (Gioan XXIII, Phaolô VI và Gioan Phaolô II) sau khi xem xong đã cảm thấy cần phải công bố nội dung của nó.

Trong năm tín điều này, hai tín điều đầu được Giáo Hội tuyên tín cách nhau 118 năm, còn ba tín điều tiếp theo lại được thẩm quyền Giáo Hoàng, chỉ trong thời khoảng 110 năm. Sở dĩ ba tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời và Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội là “dấu chỉ thời đại” cho Thời Điểm Maria là vì, so với hai tín điều đầu, Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh, Giáo Hội chỉ tuyên tín khi có lạc giáo mà thôi, trong khi ba tín điều sau là do Giáo Hội tự động “nhận biết và yêu mến Mẹ”.

Chẳng hạn như tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa được tuyên tín là vì lạc thuyết Lưỡng Ngôi, một lạc thuyết được khai triển thêm bởi vị thượng phụ giáo chủ (từ năm 428) ở Antiôkia là Nestôriô (?-450), thành lạc thuyết Nestorianism, chủ trương Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Kitô (khristotokos) mà thôi, chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa (theotokos), vì theo Nestoriô, Đức Kitô là một con người được kết hợp với thần tính của Ngôi Lời Thiên Chúa, và Ngôi Lời Thiên Chúa ở nơi Đức Kitô “như ở trong một đền thờ”.

Trường hợp tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh cũng thế, Giáo Hội tuyên tín vào dịp phi bác lạc thuyết Nhất Ý (Monothelitism), một lạc thuyết biến thiên từ lạc thuyết Nhất Tính (Monophysitism) nơi Chúa Giêsu Kitô. Theo lạc thuyết Nhất Tính, như Eutyches (378-454), một đan sĩ ở Contantinôpôli đã chấp nhận và hết mình ủng hộ, chủ trương rằng nhân tính của Chúa Giêsu Kitô bị tiêu biến trong thần tính của Người khi hiệp nhất với thần tính, do đó, nơi Người chỉ còn lại một bản tính duy nhất. Còn theo lạc thuyết Nhất Ý, do vị thượng phụ giáo chủ Contantinôpôli (610-638 AD) là Sergius chủ trương, với mục đích nhằm tái hợp các giáo hội đang bị phân rẽ vì lạc thuyết Nhất Tính, thì ông công nhận Chúa Giêsu Kitô có cả hai bản tính, thần tính và nhân tính, tuy nhiên, ông lại cho rằng, nơi Người chỉ có một hành động duy nhất (mono-energism) và chỉ có một ý muốn duy nhất (monothelitism). Nếu nơi Chúa Giêsu Kitô chỉ có một hành động và một ý muốn duy nhất như Sergius quan niệm như thế, thì ông vẫn mặc nhiên cho rằng Người chỉ có duy một bản tính chứ không phải có hai bản tính. Trong bản phi bác lạc thuyết Nhất Ý của Sergius này, Công Đồng Lateranô năm 649 đã dành riêng khoản thứ 3 (trong 16 khoản), một khoản liên quan trực tiếp đến tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh như đã được trích dẫn trên đây.

Trong khi hai Tín Điều Thánh Mẫu đầu tiên là tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa và tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh được Giáo Hội tuyên tín chỉ vì có trường hợp lạc thuyết để bảo vệ Đức Tin Tông Truyền của Giáo Hội, bằng những thành ngữ nghiêm trọng “tuyệt thông cho những ai” hay “khốn cho những ai”, thì ba Tín Điều Thánh Mẫu còn lại là tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời và Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội lại được Giáo Hội tự động công bố như chỉ để tỏ ra “nhận biết và yêu mến Mẹ”, được diễn tả qua các thành ngữ “để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa”, hay “để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn” hoặc “để vinh danh Đức Trinh Nữ”, đúng như lời tiên đoán của thánh Louis Grignion de Montfort đã được nhắc đến từ đầu:

“Vào lần đến lần thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria phải được Thánh Linh làm cho nhận biết và tỏ hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô cũng được nhận biết, mến yêu và phục vụ”.

Như thế, Thời Điểm Maria, đúng như Mẹ đã tiết lộ ở Bí Mật Fatima phần thứ hai, là thời điểm “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, tức đối với thành phần con cái cưng yêu của Mẹ, như Mẹ đã nói về thân phận của riêng thiếu nhi Lucia trong lần hiện ra thứ hai, 13/6/1917, là Thời Điểm “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”.

CTT

Sứ điệp bức ảnh

Trong Giáo Hội Đông Phương thế kỷ XIV, người ta tìm thấy nhiều bức ảnh có cùng một kích thước, vẽ Mẹ Thiên Chúa, Đức Ki-tô, các thiên thần cùng với những dụng cụ khổ hình thập giá. Theo truyền thống vẽ ảnh thánh Byzantin, Đức Ma-ri-a không bao giờ xuất hiện mà không có Chúa Giê-su, Con của Mẹ, bởi Chúa Giê-su là trung tâm của lòng tin.

 

Nghệ thuật vẽ ảnh thánh

Ta biết rằng lối vẽ ảnh thánh nói chung và ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nói riêng là thuộc về thời từ Thượng Cổ đến Trung Cổ và thuộc Giáo Hội Đông Phương, tức là vùng Hy Lạp – Byzantin và sau này lan sang cả nước Nga. Đó là nghệ thuật vẽ loại ảnh thánh mà người ta gọi là ICON. Mục đích của lối vẽ ảnh thánh này không phải để trang trí, cũng không đơn thuần chỉ chú tâm vào vẻ đẹp, tuy rằng nó rất đẹp, cũng không phải là vẽ y như thật, nhưng là để chuyển tải một thông điệp tinh thần cao cả, một điều gì đó vượt quá những thực tại trần thế được diễn tả, một mầu nhiệm hiệp thông. Đó là cả một nghệ thuật, mỗi chi tiết đều có ý nghĩa riêng của nó.

 

Vẽ ảnh thánh là để ảnh thánh trở nên như trung gian làm cho mầu nhiệm Thiên Chúa hiện ra trước mắt người ta, làm sao để đi sâu vào đời sống đức tin, tìm ra cái căn bản chung cho người vẽ cũng như người chiêm ngắm. Cho nên hoạ sĩ vẽ ảnh icon không phải cứ hứng lên là vẽ, thường đa số các hoạ sĩ đó là những tu sĩ, và khi vẽ những bức ảnh đó thì họ ăn chay cầu nguyện, nhập thần đi vào hiệp thông với Chúa, suy niệm về mầu nhiệm họ sẽ diễn tả, rồi trong sự ăn chay cầu nguyện, họ mới vẽ lên bức ảnh. Vì thế bức ảnh là kết quả của quá trình ăn chay cầu nguyện và suy niệm. Những bức vẽ theo truyền thống Byzantin giống như một khung cửa, mà có ai chỉ đứng trước cửa mà ngắm nhìn, cho dù khung cửa ấy có đẹp? Chúng ta muốn mở khung cửa ấy ra mà đi vào bên trong. Khung cửa có thể hấp dẫn hay không hấp dẫn, nhưng nó chỉ là cửa dẫn chúng ta vào một thế giới mới.

 

Có thể nói, tất cả những điều nói trên đọng lại trong mẫu ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì đây không chỉ là một cảm hứng thế gian thông thường nhưng là một sự hiệp thông thật sự với Chúa và với anh em đồng loại. Bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp quả là một khung cửa dẫn chúng ta vào cõi vô hình.

 

Ta thấy gì khi ngắm nhìn bức ảnh?

  • Ngôi sao tám cánh: Mẹ là ngôi sao dẫn lối cho ta đến cùng Chúa Giê-su
  • Chếc dép gần rơi ra: Chúa Giê-su sợ hãi vội chạy đến với Mẹ để được bảo vệ và yêu thươngNhư chúng ta, Chúa Giê-su khiếp sợ thập giá
  • Nguyên bản bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được vẽ trên gỗ hồ đào dài 53 cm, rộng 41 cm. Trên mặt tấm gỗ hoạ lại hai khuôn mặt chính và hai khuôn mặt khác có kích thước nhỏ hơn. Có thể bức ảnh này hơi lạ đối với người Tây Phương hiện đại, bởi vì chân dung Mẹ Ma-ri-a ở đây không phải là một cô gái e thẹn, mắt nhìn xuống. Cái nhìn trực tiếp và nét mặt mạnh mẽ của Mẹ khiến ta phải chú tâm. Chúng ta bị ấn tượng bởi sự không thực của những khuôn mặt. Chúa Giê-su mang dáng vẻ là một trẻ em, nhưng khuôn mặt của Ngài lại như già trước tuổi. Đức Ma-ri-a và Chúa Giê-su không được đặt trong một quang cảnh nhưng được đặt trên một nền màu vàng đối lập.
  • Bên cạnh người nữ, ta thấy những chữ viết tắt bằng tiếng Hy Lạp “MR” và “THU” (Mater Theou) có nghĩa là: Đấng ấy là Mẹ Thiên Chúa. Ngôi sao tám cánh trên trán Mẹ có lẽ được các nghệ sĩ sau này thêm vào để nói lên ý tưởng Phương Đông: Mẹ là ngôi sao dẫn lối cho chúng ta đến cùng Chúa Giê-su. Bên trái ngôi sao đó, ta cũng thấy cây thánh giá được gắn thêm, có lẽ để cho đẹp. Phía bên người con có khắc chữ “IC” và “XC” (Jesous Christos): Giê-su Ki-tô – Đấng Cứu Chuộc.
  • Trên đầu sứ thần, bên trái ta đọc thấy “O AR M” (O Archangelos Michael), nghĩa là Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-en, (tiếng Do Thái có nghĩa là ai bằng Thiên Chúa), là đấng ở trên trời chỉ huy trận chiến giữa các thiên thần chống lại kẻ thù của cuộc Nhập Thể/Giáo Hội (Kh 12,7). Ngài cầm chiếc bình đựng đầy nước đắng, thứ nước mà người lính sẽ đưa lên cho Chúa Giê-su uống khi Ngài bị treo trên thập giá. Thiên thần ấy cũng cầm cây sậy với miếng bọt biển quấn ở đầu (Mt 27,48), và một lưỡi đòng, thứ dụng cụ sẽ được dùng để đâm vào cạnh sườn Chúa, để lời Kinh Thánh hoàn toàn ứng nghiệm (Ga 19,28-36).
  • Trên đầu vị sứ thần bên phải ta đọc thấy “O AR G” (O Archangelos Gabriel), nghĩa là Tổng Lãnh Thiên Thần Gáp-ri-en, đấng đầu tiên loan báo thời cứu độ qua lời truyền tin cho Đức Trinh Nữ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng.” (Lc 1,28), nhưng cũng là đấng mang thập giá và 4 đinh sắt, những dụng cụ cho Chúa thấy phần nào định mệnh của Người: phải qua đau khổ và cái chết.

 

Tại sao Con Thiên Chúa sợ hãi

Nhìn lên ảnh Mẹ, ta thấy Mẹ bồng Chúa Giê-su trên tay, nhưng Chúa thì đang quay ngoắt đi như có vẻ sợ hãi. Ta có thể hình dung Chúa Giê-su từ xa chạy đến bám chặt vào Mẹ. Người không nhìn Đức Mẹ, không nhìn chúng ta và cũng không nhìn các thiên thần, nhưng nhìn vào điều gì đó mà ta không thấy – điều gì đó khiến Người sợ vội chạy đến với Mẹ làm cho một chiếc dép gần rơi ra; điều gì đó khiến Người bám chặt vào Mẹ để được bảo vệ và được yêu thương. Người sợ bởi vì thấy hai thiên thần xuất hiện hai bên, thay vì mang hạc cầm và kèn để hát ca cầu nguyện thì lại mang trên tay những dụng cụ khổ hình mà Chúa phải chịu, tức là thập giá, đinh sắt, lưỡi giáo, nước đắng với bọt biển. Một lần mặc lấy bản tính hay chết (Pl 2,6-11), Con Thiên Chúa cũng sợ chết, và khi nhìn thấy các dụng cụ hành hình rất đáng sợ như thế, sự sợ hãi kinh hoàng bao trùm lấy Người (Lc 22,41-44). Người chạy đến với Mẹ, và được Mẹ ôm vào lòng trong giây phút kinh hoàng ấy. Điều này muốn nói rằng Mẹ sẽ luôn ở bên Chúa trong cuộc sống và cái chết của Người. Khi Mẹ không thể gánh hết đau khổ của Con Mẹ thì Mẹ có thể yêu thương và an ủi Người. Mẹ ôm con vào lòng gần trái tim (Lc 2,35.51). Mẹ ở đó, trong lòng tin, gần Đức Ki-tô, Đấng hiến mạng sống mình vì tình yêu đối với chúng ta là những tội nhân (Rm 5,8-11). Mẹ thực thi thiên chức làm mẹ của mình đối với tất cả những ai đón nhận Lời Thiên Chúa (Ga 19,27).

 

Ánh mắt của Mẹ

Vậy, tuy rằng hoạ sĩ vẽ Đức Mẹ bồng Chúa Hài Nhi, nhưng toàn cảnh lại ngụ ý rằng Người Con Mẹ sinh ra kia sẽ là Đấng bước lên thập giá. Đấy là người mẹ của mầu nhiệm thập giá. Người Mẹ bồng con cũng là người mẹ đứng bên thập giá. Người mẹ mang Chúa đến, và Chúa đến là để đưa Mẹ vào trong cùng một cuộc khổ nạn. Vì thế, ta thấy nét mặt của Đức Mẹ đượm một vẻ u buồn. Nhưng nét mặt thì hơi buồn mà cặp mắt lại rất âu yếm, cặp mắt ấy không nhìn vào Chúa Giê-su, không nhìn lên trời, không nhìn vào các thiên thần. Khi đến gần ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ta sẽ thấy dù ta đứng chỗ nào, Đức Mẹ cũng như đang nhìn ta. Mẹ nhìn ta như thể muốn nói với ta một điều gì đó quan trọng lắm. Ánh mắt Mẹ có vẻ nghiêm nghị, hơi buồn, nhưng đòi ta phải chú tâm. Ánh mắt Mẹ đưa ta vào cuộc, làm cho ta nên một thành phần trong bức hoạ. Hoá ra, Mẹ bồng Chúa trên tay nhưng Mẹ lại đang đưa mắt nhìn hết cả thế gian, không trừ một người nào. Điều này ngụ ý rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban cho mọi người, mọi thế hệ, mọi thời, mọi nơi. Cái nhìn của Mẹ cũng mời gọi ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, hãy chạy đến với Mẹ để tìm nơi ẩn náu, hãy chạy ngay đến với Mẹ như Chúa Giê-su đã làm xưa, chạy thật nhanh đến với Mẹ đến độ chẳng cần nghĩ chúng ta đang mang gì, chạy thế nào, chỉ cần chạy thẳng đến.

 

Thập giá và vinh quang

Ta thấy, ở đây có mầu nhiệm thập giá: Chúa sẽ phải chết vì ta; ở đây có nét đượm buồn trên gương mặt Đức Mẹ, nhưng tất cả những điều đó không có ý nói rằng mọi sự là bi quan, đen tối. Điều này được diễn tả trong chi tiết nền màu vàng và màu áo của Mẹ, màu áo của Chúa. (Tiếc là nhiều bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hiện nay thay vì nền vàng lại là một màu đen, màu nâu…và đôi khi nhiều bức ảnh lại được tô điểm hơi quá mức làm mất đi nét thực của nó). Trong hội hoạ nghệ thuật vẽ icon của Giáo Hội Đông Phương thời xưa, màu vàng là màu nói về ánh sáng, về vinh quang của Thiên Chúa. Tất cả nền của bức ảnh này là màu vàng. Hơn nữa, ta thấy Mẹ mặc chiếc áo dài màu xanh đậm với yếm đỏ và áo ngang lưng màu xanh lá cây. Màu xanh đậm, màu xanh lá cây, màu đỏ đó là màu vương giả, chỉ những hoàng hậu mới được phép mặc những màu như thế. Chúa Giê-su cũng mang những màu vương giả, chỉ những Hoàng Đế mới được mặc áo thắt ngang lưng màu xanh lá cây, áo choàng vai màu đỏ và gấm thêu kim tuyến màu vàng. Như thế, cái chết của Chúa Giê-su, khổ hình thập giá Chúa phải chịu lại được đặt trên nền tảng vinh quang của Thiên Chúa. Và vinh quang của Thiên Chúa mới là cái bao trùm sự chết và đau khổ của Chúa Giê-su, là ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho người ta.

 

Mẹ dẫn đường chỉ lối

Khi ngắm bức ảnh, chúng ta thấy Chúa Con được vẽ toàn thân, còn Đức Mẹ chỉ có bán thân, nhưng ta có cảm giác là Mẹ đang đứng. Và điều đặc biệt là điểm trung tâm của bức ảnh không phải là Đức Mẹ hay Chúa Giê-su, mà là hai bàn tay giao nhau, bàn tay của Chúa đang nắm lấy bàn tay của Mẹ. Vậy trong mầu nhiệm Đức Giê-su đến và chịu chết có sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa, có sự hoà giải giữa con người và Thiên Chúa. Và nếu nhìn kỹ hơn, chỗ hai bàn tay giao nhau, chúng ta thấy ngón tay của Đức Mẹ rất dài, ngón tay dài ấy là ký hiệu của hội hoạ truyền thống nghệ thuật vẽ ảnh thánh icon ngày xưa. Đức Mẹ với ngón tay dài được gọi là Đức Mẹ Chỉ Đường. Ngón tay này là ngón tay chỉ đường. Vậy tất cả bức ảnh này có ý nghĩa là Đức Mẹ chỉ cho ta thấy mầu nhiệm Chúa đến để cứu độ trần gian. Cũng nơi bàn tay giao nhau ấy, ta thấy bàn tay của Đức Mẹ không nắm chặt bàn tay của Con Mẹ đang sợ hãi cần sự che chở, nhưng bàn tay ấy luôn mở ra. Mẹ mời gọi chúng ta hãy cùng với Chúa Giê-su đặt bàn tay của mình vào trong tay Mẹ. Mẹ biết những gì nguy hiểm và khủng khiếp sẽ xảy đếvới chúng ta trong cuộc đời và chúng ta cần ai để chạy đến khi đau khổ và sợ hãi. Mẹ sẽ mang đến cho chúng ta niềm an ủi và tình yêu như xưa Mẹ đã làm cho Con Mẹ.

 

Chắc hẳn còn nhiều chi tiết ẩn chứa trong bức linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mời gọi chúng ta tìm hiểu và khám phá. Và mỗi người sẽ khám phá ra được một điều gì đó cho riêng mình khi lặng ngắm ảnh Mẹ với cả tấm lòng, với chính bản thân đang ở trong nỗi khốn khó, gian truân, cần được Chúa cứu độ. Bởi vì, bức linh ảnh Mẹ luôn toả ra một sự an bình huyền diệu. Một sự an bình linh thiêng và sâu thẳm, được cất giấu trong sự đau khổ như kho tàng quý báu của Nước Thiên Chúa (Mt 13,44).

 

Một nhà điều dưỡng Công giáo tại Bỉ bị phạt vì từ chối trợ tử cho một bệnh nhân

Một tòa án dân sự ở Leuven, bên Bỉ đã truyền rằng nhà điều dưỡng Thánh Augustinô của Giáo Hội Công Giáo tại Bỉ “không có quyền từ chối trợ tử vì lý do lương tâm.”

 

Theo luật pháp của Bỉ, các bác sĩ có thể từ chối tiêm thuốc độc, nhằm mục đích kết thúc mạng sống của một bệnh nhân. Tuy nhiên, tòa án tại Leuven nói rằng “điều khoản lương tâm” này chỉ áp dụng cho cá nhân, không phải cho các tổ chức.

 

Bệnh nhân trong vụ án này là một phụ nữ 74 tuổi bị ung thư phổi, cuối cùng được đưa ra khỏi nhà điều dưỡng để về nhà riêng của mình, ở đó một bác sĩ đã chích một liều gây tử vong.

 

Tòa truyền rằng nhà điều dưỡng Thánh Augustinô phải trả tiền phạt là 3,000 € (khoảng 3,320 Mỹ Kim), và 1,000 € cho mỗi một trong ba đứa con của người phụ nữ đã chết vì “các đau khổ không cần thiết về tinh thần và thể chất.”

 

Cộng với các án phí, nhà điều dưỡng Thánh Augustinô, sau một thời gian tận tình chăm sóc cho người phụ nữ này, đã phải đóng phạt một con số lên đến hơn 10,000 Mỹ Kim.

6 dấu chỉ thời cánh chung

Chúng ta nghe nói nhiều tới thời cánh chung, tận thế hoặc Chúa Giêsu giáng lâm. Nhưng rồi nghe mãi hóa nhàm nên chúng ta lại cho là bình thường. Đó là động thái nguy hại cho chính cuộc đời chúng ta. Hãy cảnh giác! Và liệu Kinh Thánh có cảnh báo chúng ta?

Thần học gia Jeff Kinley, tác giả cuốn “As It Was In The Days of Noah: Warnings from Bible Prophecy About the Coming Global Storm” cũng nghĩ vậy. Kinley nói: “Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa sẽ có lúc tái lâm để xét xử nhân loại. Nhưng khác với Đại Hồng Thủy, ngày đó sẽ là một sự kiện đơn giản, có thể là một loạt sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Đại Hồng Thủy cho thấy rằng Thiên Chúa kiên nhẫn, nhưng Ngài đặt ra giới hạn chịu đựng. Mặc dù hình phạt hủy hoại dữ dội, nhưng Ngài vẫn xét xử công bình và cho nơi trú ẩn”.

Đối với những người nghi ngờ tính hữu hiệu của Kinh Thánh hoặc không muốn nhìn nhận văn hóa ngày nay, Kinley chia sẻ 6 dấu chỉ và những gợi ý cho thấy thế giới đang đi đến ngày phán xét…

1. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta biết nhiều về vấn đề này. Đó là chủ đề nóng về tình trạng kinh tế. Trái khoản quốc gia Hoa Kỳ tiếp tục tăng vọt. Trên khắp thế giới, các nước lớn và nhỏ đều không thỏa mãn nhu cầu nên lún sâu vào hố nợ nần. Cũng như thời ông Nô-ê, người ta phải nhờ vào các nước khác để sinh tồn, và họ phải trở về với Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết: “Nếu dân Ta, dân vốn kêu cầu Danh Ta, mà biết hạ mình xuống khẩn nguyện và tìm kiếm Nhan Ta, từ bỏ những con đường xấu xa mà trở lại, thì Ta, từ trời, Ta sẽ nghe và thứ tha tội lỗi nó và sẽ phục hưng xứ sở của nó” (2 Sbn 7:14).

2. BẠO LỰC và ÁN MẠNG

Kinley nói rằng có một bệnh dịch không thể kiểm soát là thù hận và bạo lực trong thế giới chúng ta, đó là điều hiển nhiên trong các loại tội phạm khủng bố vì thù hận, trong các nhóm tôn giáo, giết người có động lực thúc đẩy, giết những người vô tội và trẻ em trên khắp thế giới – điển hình là những người bị tàn sát dã man tại I-rắc trong những ngày vừa qua (tháng 8-2014). Năm 2011, hơn 1,2 triệu vụ phạm pháp dữ tợn đã xảy ra tại Hoa Kỳ – mỗi năm có 15.000 vụ giết người. Chúa Giêsu đã nói trước: “Thời ông Nô-ê thế nào thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (Mt 24:37). Thời ông Nô-ê dầy bạo lực và sự xét xử của Thiên Chúa. Còn hơn là khuyến khích sợ hãi và lo lắng, Kinley động viên các Kitô hữu tìm hiểu các cách thể hiện tiên tri ngày nay và sống đức tin viên mãn là chia sẻ Đức Giêsu Kitô với người khác.

3. TRỘM CƯỚP

Ngày nay, thông tin cá nhân và tài chính không còn an toàn vì các hacker (kẻ cắp dữ liệu). Mối quan ngại này bao gồm cả mật khẩu của điện thư (email passwords), hình ảnh webcam và điện đàm. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng kẻ trộm cắp không làm gì khác hơn là giết người và cướp của. Chúng ta hiểu thời đại chúng ta theo nghĩa đen, nhưng qua con mắt của Kinh Thánh, kẻ thù đang cố gắng ăn cắp tính đồng nhất hoặc sự nhân dạng của chúng ta (giống như trộm cướp thẻ căn cước). Kinley khuyên các Kitô hữu “sống khôn ngoan và cứu lấy thời đại của chúng ta”.

4. VÔ LUÂN

Thế hệ này mê tình dục quá độ và coi thường tâm linh. Biên độ luân lý hầu như không còn trong văn hóa tự do tình dục, thoải mái chia sẻ các hình ảnh “đen”, kể cả âm thanh và văn bản. Các phương tiện di động (điện thoại, ipod, ipad, iphone,…) và mạng lưới xã hội (facebook, twitter, youtube,…) đầy những thứ độc hại. Kinley nhận xét: “Như trong thời ông Nô-ê, thời đại chúng ta là thế giới ưa tình dục, và ngày nay người ta dùng để bán đủ thứ – từ chiếc kẹo cao-su tới xe hói. Tình dục xuất hiện khắp nơi”.

5. BÁCH HẠI KITÔ GIÁO

Năm 2011, gần 100 triệu Kitô hữu bị bách hại trên khắp thế giới. Năm 2012, con số này tăng gần gấp đôi. Kinley shares that the Bible reaffirms this as Chúa Giêsu nói: “Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiệnvà lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24:9-13).

6. ĐỨC TIN GIẢM SÚT

Thánh Phaolô nói: “Vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; đó là vì trò giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung” (1 Tm 4:1-2). Thời đại chúng ta có nhiều niềm tin sai lạc, các triết lý thời đại mới, và các bậc thầy tâm linh. Khi đến ngày tận thế, sẽ có nhiều các tiên tri giả, họ tự xưng là Đức Kitô. Kinley tin rằng việc phục hưng trong Giáo hội là cách mới và không được đề cập trong Kinh Thánh.

VĨ NGÔN: “ĐỪNG SỢ, THIÊN CHÚA LUÔN CHE CHỞ BẠN”

Tác giả Kinley nhắc nhở chúng ta rằng trong thời ông Nô-ê cũng như ngày nay, sự công chính và thánh thiện của Thiên Chúa luôn đứn vững. Khi các Kitô hữu biết trước sự trở lại của Đức Kitô, thì họ cũng phải như ông Nô-ê là biết sống sao cho người khác thấy mà trở về với ơn cứu độ. Hãy sẵn sàng chiến đấu và can đảm như lời Chúa nói với Áp-ram trước khi trở thành Tổ phụ Áp-ra-ham: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông. Ông Áp-ram cúi rạp xuống” (St 17:1-2).

KHA ĐÔNG ANH (Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Bắt Đầu Từ Con Số Không!

Bạn sẽ làm gì khi có một ngày thức dậy thấy bên mình không còn gì nữa cả. Tiền trong túi không còn, việc làm không có, người yêu chia tay, bạn bè, gia đình ở xa…Cuộc sống coi như mất hết ý nghĩa. Vậy mà đến lúc đó, tôi lại tự dưng mỉm cười .

Con số không tròn trĩnh để người ta soi mình vào đó và chợt nhận ra những thất bại. Như một chiếc gương soi trung thực để thấy ta từ thuở tập bò, tập đi vội vàng tập chạy rồi thì ….té ngã. Có kẻ té rồi nằm luôn, có kẻ gượng dậy để …té tiếp. Trong suốt cuộc đời bao nhiêu lần ta ngã, bao nhiêu lần đứng dậy ta có nhớ hết không?

Khi tiền trong túi không còn, tôi nghĩ đến hàng triệu người trên thế giới vẫn còn đang đói khát. Khi việc làm không có tôi tin cũng có hàng triệu người khác cũng đang chạy đôn chạy đáo tìm việc như mình. Khi tình yêu vỡ tan, tôi viết thêm vào thời gian biểu của mình một số giờ học thêm hoặc đi ngủ. Và rồi tôi mìm cười. Cuộc sống vẫn cứ trôi. Đôi khi ta chao đảo. Rồi sau đó ta sẽ nhận ra và lấy lại thế quân bình. Một câu danh ngôn nào đấy đại ý là như vậy. Hình như tôi là người lạc quan.

Và khi người ta no đủ, người ta sẽ không thể có được cảm giác thử sức khao khát và hy vọng. Bởi vậy cho đến già ta vẫn cứ là bé thơ khi chơi thứ đồ chơi nầy đến chán ngấy rồi lại đòi thứ khác. Tôi khao khát no đủ nhưng sẽ chẳng bao giờ no đủ. Lúc biết mình đang đi vào cái vòng tròn của con số không, tôi sẽ hít một hơi dài rồi vùng vẫy.

Có biết bao nhiêu người trên Trái Đất nầy tìm ý nghĩa cuộc sống bằng cách ban tặng cuộc đời mình đến những nơi xa xôi, những người cùng khổ. Thế thì tại sao ta thấy đời mất hết ý nghĩa khi lại bắt đầu bằng bàn tay trắng.

Hãy cứ tin đi, bằng cách mỉm cười khi mình thất bại, sẽ thấy cuộc đời lại mỉm cười. Khi ta không còn gì hết, không có gì hết, đời sẽ ban tặng ta một cái gì đó mới mẻ hơn, hạnh phúc hơn. Sau hạnh phúc là bất hạnh, đi hết bất hạnh rồi sẽ gặp hạnh phúc. Điều đó chẳng phải là quy luật sao?

Kết thúc vụ án Vatileaks 2

Kết thúc vụ án Vatileaks 2

Sau gần 8 tháng xét xử, phiên toà được gọi là Vatileaks II đã kết thúc với các bản án dành cho 2 trong số 5 bị cáo.

Theo Đài Phát thanh Vatican, bị cáo người Tây Ban Nha là Đức ông Lucio Angel Vallejo Balda bị kết án 18 tháng tù giam với tội danh “tiết lộ các tài liệu mật liên quan đến lợi ích căn bản của Tòa Thánh”.

Bà Francesca Immacolata Chaouqui – giáo dân người Italia, nhận bản án 10 tháng tù vì đã cộng tác với bị cáo Vallejo Balda, và được hưởng án treo trong thời gian 5 năm; án này sẽ không áp dụng trừ phi bị cáo phạm một tội nào khác trong thời gian nói trên.

Đức ông Vallejo Balda từng là Thư ký của Uỷ ban Tham vấn về Tổ chức kinh tế–quản trị của Toà Thánh (COSEA – thành lập ngày 18-07-2013 và giải thể ngày 22-05-2014); và bà Francesca Immacolata Chaouqui là thành viên của Uỷ ban này; bà hiện đang có một con trai nhỏ ba tuần tuổi.

Bị cáo Nicola Maio – trợ lý của Đức ông Vallejo Balda, được tha bổng vì không có sự hợp tác trong âm mưu phạm tội.

Hai bị cáo Gianluigi Nuzzi và Emiliano Fittipaldi Both, là hai phóng viên Italia, bị cáo buộc đã gây áp lực với các bị cáo trên để có được thông tin mật về Đức giáo hoàng và Toà Thánh. Họ đã viết và xuất bản các quyển sách dựa trên các tài liệu rò rỉ này. Tuy nhiên, toà tuyên bố họ được trắng án với lý do ngành tư pháp Vatican không có thẩm quyền đối với họ. Vị chánh án nói rằng cả hai phóng viên này là công dân Italia và họ không phạm tội ở thành quốc Vatican.