Home Blog Page 490

Cảnh sát Ai Cập cho rằng nữ tu Athanasia bị giết vì đạn lạc

Cảnh sát Ai Cập cho rằng nữ tu Athanasia bị giết vì đạn lạc

Trong thông cáo được đưa ra hôm 6 tháng Bẩy, được đọc tại tu viện Mar Girgis, và được gởi đến thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, cảnh sát tại Guizeh cho rằng chị Athanasia, một nữ tu Chính Thống Coptic đã bị giết vì đạn lạc chứ không phải bị khủng bố tấn công.

Trong thông cáo được đưa ra hôm 6 tháng Bẩy, được đọc tại tu viện Mar Girgis, và được gởi đến thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, cảnh sát tại Guizeh cho rằng chị Athanasia, một nữ tu Chính Thống Coptic đã bị giết vì đạn lạc chứ không phải bị khủng bố tấn công.

Một ngày trước đó, tức là hôm thứ Ba 5 tháng 7, chị Athanasia đi trên một xe hơi cùng với tài xế và các chị em khác trên quốc lộ nối liền thủ đô Cairo và thành phố Alexandria để đến tu viện Mar Girgis ở Khatatba.

Cảnh sát nói rằng khi xe đến Guizeh, chị Athanasia bị trúng một viên đạn và đã qua đời. Cảnh sát tin rằng đó là một viên đạn lạc trong lúc hai gia tộc lớn có máu mặt ở địa phương đang bắn giết nhau.

Báo cáo ban đầu được gửi đến Fides nói cái chết của chị là do một âm mưu khủng bố chống lại người Chính Thống Giáo Coptic Ai Cập.

Tòa án quốc gia thành Vatican tuyên án vụ “Vatileaks II”

Tòa án quốc gia thành Vatican tuyên án vụ “Vatileaks II”
Sau phiên tòa kéo dài 8 tháng, Tòa án quốc gia thành Vatican đã kết án hai viên chức Vatican, nhưng tha bổng hai nhà báo người Ý, trong vụ án “Vatileaks II”.

Trong phán quyết đưa ra hôm thứ Năm, 7 tháng Bẩy, 2016:

– Đức Ông. Lucio Vallejo Balda, nguyên thư ký của Hội Đồng Các Vấn Đề Kinh Tế Tòa Thánh, bị kết án rò rỉ các tài liệu bí mật của Vatican cho các phóng viên. Tòa tuyên án mười tám tháng tù giam.

– Francesca Chaouqui, là người mà các công tố viên cho là kẻ chủ mưu của vụ rò rỉ này, bị kết tội âm mưu. Tuy nhiên, vì Tòa án thấy không có bằng chứng kết luận rằng cô đã thực tế trao các tài liệu cho các phóng viên, cô chỉ bị mười tháng tù giam – nhưng đình chỉ thi hành án trong năm năm thử thách; nghĩa là trong vòng 5 năm tới, nếu Francesca Chaouqui không phạm một tội khác thì án mười tháng tù giam được hủy bỏ. Nếu cô phạm vào một tội khác, cô ta phải thi hành hình phạt của án đó cộng với mười tháng tù giam của án này. Như vậy Chaouqui, giờ đây đã gần sinh con, được phóng thích tại tòa.

– Nicola Maio, nguyên thư ký cho Đức Ông Vallejo Balda, được tuyên bố vô tội vì không tham gia vào âm mưu này.

– Gianluigi Nuzzi và Emiliano Fittipaldi, là hai nhà báo Ý đã xuất bản những cuốn sách dựa trên các tài liệu bị rò rỉ, đã được tha bổng, trên cơ sở đó họ là công dân Ý hoạt động bên ngoài Vatican, không thuộc thẩm quyền tài phán của quốc gia thành Vatican.

Phán quyết của tòa án được coi là nhẹ hơn rất đáng kể so với đề nghị của các công tố viên. Trước đó, các công tố viên đã đề nghị mức án ba năm và chín tháng cho Chaouqui; ba năm và một tháng đối với Đức Ông Vallejo Balda.

Đức Ông Vallejo Balda sẽ không phải ngồi tù đến 18 tháng vì đương sự đã bị bắt nhiều tháng trước khi phiên tòa kéo dài 8 tháng này được mở ra. Xét vì Đức Ông Vallejo Balda đã nhận tội, Đức Thánh Cha cũng có thể sẽ ân xá cho đương sự.

Phán quyết của tòa án cho thấy những yếu điểm của các công tố viên. Mặc dù Chaouqui được xem là nhân vật trung tâm trong vụ này – và các thẩm phán cũng tin chắc về vai trò của cô trong vụ án – các công tố viên đã không trình ra được những bằng chứng thuyết phục rằng cô ta đã tham gia vào vụ rò rỉ này.

Trường hợp vô tội của ông Maio là hiển nhiên. Ông chưa từng gặp các nhà báo là những người nhận được các tài liệu bị đánh cắp. Vụ rò rỉ xảy ra sau khi ông kết thúc công việc với Đức Ông Vallejo Balda.

Và thực tế là tòa án quốc gia thành Vatican không có quyền tài phán trên Nuzzi và Fittipaldi, khiến cho các quan sát viên nghĩ rằng các công tố viên có thể đã lãng phí thời gian của họ. Tuy nhiên, phát ngôn viên của Tòa Thánh là Cha Federico Lombardi, nói việc truy tố các phóng viên là cần thiết để chứng minh quyết tâm của Vatican muốn chặn đứng các vụ rò rỉ. Lựa chọn duy nhất, theo cha Lombardi, “là can đảm giải quyết vấn đề và hiểu rõ trách nhiệm thực tế của các phóng viên, mặc dù Tòa Thánh thấy trước sẽ gây ra những ý kiến có tính luận chiến về vấn đề tự do báo chí”

Chaouqui, người thề rằng cô ta sẽ thụ án tù bất kỳ phán quyết nào của tòa nói rằng kết luận này của tòa đã kết thúc “một phần đau đớn nhất của cuộc đời tôi.” Cô tuyên bố rằng phán quyết này sẽ thuyết phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng “Tôi không bao giờ phản bội ngài.”

Đối với Nuzzi và Fittipaldi – và các nhà báo ủng hộ họ – phán quyết của tòa là một sự xác minh công việc của họ như các phóng viên. Các luật sư của các nhà báo lập luận rằng các thân chủ của họ chỉ săn lùng để công bố sự thật về vấn đề kinh tế của Vatican, và họ có quyền dùng các tài liệu có trong tay.

Các bị cáo có ba ngày để kháng cáo quyết định của tòa án.

Thứ bảy tuần 14 Thường Niên

 

Ca Nhập Lễ

Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền thánh, chúng con hồi tưởng lại tình Chúa yêu thương. Danh thánh Chúa gần xa truyền tụng. Tiếng ngợi khen Ngài khắp cõi lừng vang. Tay hữu Chúa thi hành công lý.

Lời Nguyện Nhập Lễ

Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này; Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…

 

BÀI ĐỌC I: Is 6, 1-8

“Lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh”.

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Thiên Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh phủ chân và hai cánh để bay. Các vị đó luân phiên tung hô rằng: “Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa!” Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và Ðền thờ đầy khói. Tôi nói rằng: “Vô phúc cho tôi, tôi chết mất! Vì lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh”. Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp gắp từ trên bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: “Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi ngươi được xoá bỏ, tội của ngươi được tha thứ”. Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho Chúng Ta?” Tôi liền thưa: “Này con đây, xin hãy sai con”.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5

Ðáp: Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).

1) Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời đời vẫn có Chúa.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn đời.

ALLELUIA: Tv 118, 27

All. All. – Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. – All.

PHÚC ÂM: Mt 10, 24-33

“Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà. “Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần. “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời”.

Ðó là lời Chúa.

 

Lời Nguyện Tiến Lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin Chúa dùng của lễ chúng con dâng tiến để thanh tẩy và hướng dẫn chúng con, cho chúng con ngày càng biết sống thân tình với Chúa. Chúng con cầu xin…

Kinh Tiền Tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Nhờ Con yêu dấu của Chúa, Chúa đã tác thành nhân loại thế nào thì Chúa cũng lấy lòng rất nhân từ mà tái tạo như vậy. Bởi đó, mọi loài thụ tạo phải phụng thờ Chúa, mọi người đã được cứu chuộc ở khắp nơi đều cung kính ca ngợi, và các Thánh đồng tâm chúc tụng. Vì thế, cùng với toàn thể các Thiên thần, chúng con ca ngợi Chúa và luôn hân hoan tuyên xưng rằng: Thánh! Thánh! Thánh!

Ca Hiệp Lễ

Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy. Hạnh phúc thay ai trông cậy nơi Người.

Lời Nguyện Hiệp Lễ

Lạy Chúa, chúng con vừa lãnh nhận hồng ân cao cả; xin cho chúng con được hưởng ơn cứu độ dồi dào và không ngừng chúc tụng tạ ơn Chúa. Chúng con cầu xin…

 

THẦY ĐÂY ! ĐỪNG SỢ !

 

Con người thường sợ hãi trước dư luận, sợ mất danh dự, sợ mất quyền lợi, sợ mất mạng sống. Vấn đề đặt ra vẫn là chúng ta sợ hay tin, vì ở đâu có sợ, ở đấy chưa có tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đấy còn ngờ vực Thiên Chúa không quan tâm đến chúng ta. Không sợ có nghĩa là vững tin giữa cơn phong ba cuộc đời. Dù bản chất ta yếu đuối nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong công việc truyền giáo. Loan báo Tin Mừng đòi ta can đảm và biết kín múc sức mạnh từ nơi Thiên Chúa.

Và rồi nỗi sợ hãi làm con người không dám nhìn nhận sự thật, đối diện với sự thật và nói sự thật. Chẳng hạn, sợ bị kỳ thị, nhiều Kitô hữu không dám nhìn nhận căn cước của mình; sợ bị mất chức quyền, nhiều Kitô hữu không dám công khai sống đạo; sợ phải sống như lời Chúa dạy, nhiều Kitô hữu không dám đọc và suy niệm Lời Chúa, không dám dấn thân, không dám chịu thiệt thòi.

Trang Tin Mừng hôm nay ở trong bối cảnh sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu. Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa sai họ đi với định hướng duy nhất là loan báo Nước Trời đã đến gần trong thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chúa cũng tiên báo cho họ về những cuộc bách hại họ sẽ phải trải qua như bị nộp, bị thù ghét vì danh Chúa và họ sẽ đồng số phận bị loại bỏ như Chúa. Chúa biết điều đó làm cho các ông rất sợ hãi nên Chúa đã trấn an và khuyến khích: “Đừng sợ!” vì Chúa luôn hiện diện bên họ. Chúa trấn an họ: một khi đã đặt niềm tin vào Chúa, họ sẽ được yêu thương chăm sóc vì mạng sống con người còn quí hơn chim trời và hoa cỏ đồng nội.

“Đừng sợ!”, là lời Thiên Chúa đã nói hơn 365 lần trong Thánh Kinh để trấn an dân Chúa trong lịch sử cứu độ; và cũng là lời Chúa Giêsu liên tục củng cố niềm tin cho các môn đệ của Người. Vì thế, là những Kitô hữu trong ơn gọi bước theo sứ mạng của Chúa Giêsu giữa lòng thế giới đầy tràn những biến động hiện nay, chúng ta hãy tin rằng: Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi người chúng ta: Đừng sợ! “Lòng anh em đường xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14,1). Đây là một lời trấn an rất cần thiết và có sức nâng đỡ tuyệt vời nhất cho thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta.

Chúa Giê-su bảo chúng ta “đừng sợ”, bởi không gì có thể che giấu sự thật, mà sự thật lớn lao nhất là sự hiện diện của Chúa. Theo thánh Gioan, sở dĩ người ta sợ hãi không dám nhìn nhận sự thật, bởi người ta thiếu tình yêu  Chúa. “Tình yêu thì không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Ga 4,18). Một khi tin yêu Chúa, Kitô hữu sẽ mạnh dạn xác nhận căn cước Kitô hữu của mình, sẽ can đảm sống lời Chúa dạy và sẽ dùng đời sống của mình minh chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Vì Thiên Chúa là Cha yêu thương, luôn quan tâm săn sóc đến các tạo thành của Ngài, ngay cả những sinh vật nhỏ bé như  chim sẻ và hoa đồng nội. Đây là một điểm giáo lý quan trọng nên Chúa Giêsu thường nhắc lại với các môn đệ trong những tình huống cụ thể. Như khi các ông hoảng sợ vì biển động, Chúa đã đến trấn an: “Chính Thầy đây đừng sợ!” (Ga 6,20); hoặc trong bài diễn từ sau bữa tiệc ly, Chúa cũng nói với các ông: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16,33).

Nhờ sự trấn an, khích lệ của Chúa để rồi các môn đệ đã trung thành theo Chúa và sẵn sàng làm chứng cho Chúa đến hơi thở cuối cùng. Mặc dầu đức tin của các môn đệ ban đầu xem ra bị thử thách khi Chúa đi vào cuộc khổ nạn. Và rồi, chính trong hoàn cảnh bi đát của cuộc đời, Chúa vẫn tỏ cho các ông tình yêu thương xót, cảm thông, tha thứ của Thiên Chúa và tiếp tục tín nhiệm ban sức mạnh Thánh Thần cho các môn đệ và sai các ngài đi làm nhân chứng cho Chúa.

Hẳn ta còn nhớ hình ảnh hay nói đúng hơn tâm tình hết sức dễ thương khi đăng quang trong ngôi vị giáo hoàng, cả hai Đức Thánh Cha: Gioan Phaolô II và Bênêđitô XVI đều nhận lãnh sứ vụ trong thái độ nương tựa vào lời Chúa: “Đừng sợ!”

Ta thấy chính niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo Hội như Đầu nhiệm thể của Người, mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trở nên một nhân vật xây dựng hòa bình được toàn thế giới mến phục và Đức Bênêđictô XVI mới dám can đảm nhận chức Giáo Hoàng khi đã cao niên. Qua kinh nghiệm rất thực tiễn trong cuộc sống, ta thấy được trong vai trò đại diện cho Chúa Kitô, các ngài lại tiếp tục trấn an các tín hữu: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” (ĐTC GP II), và “Hãy mở rộng ra những cánh cửa cho Chúa Kitô, và các con sẽ tìm thấy sự sống thật.” (ĐTC Bênêđictô XVI).

Xin Chúa cho ta thực sự được củng cố niềm tin qua trang Tin Mừng hôm nay. Hy vọng, mỗi khi phải đối diện với những đau khổ và thách đố trong sứ vụ làm chứng giữa đời, Chúa luôn ở bên cạnh ta và cho ta luôn cảm nhận được sự hiện diện của Chúa ở ngay bên ta với lời trấn an “Thầy đây. Đừng sợ! ”

Người nghèo là kho tàng cùa Giáo Hội

ĐTC Phanxicô tiếp phái đoàn người nghèo các giáo phận Pháp hành hương Năm Thánh Lòng Thương Xót ngày 6-7-2016 –

Anh chị em ở trong tim Giáo Hội và anh chị em cho phép chúng tôi gặp gỡ Chúa Giêsu, vì toàn cuộc sống của anh chị em nói về Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến đoàn hành hương 200 người nghèo thuộc các giáo phận Pháp lúc 9 giờ sáng hôm qua (6-7) trong đại thính đường Phaolô VI. ĐTC nói: dù hoàn cảnh, lịch sử và gánh nặng của anh chị em thế nào đi nữa, thì chính Chúa Giêsu tụ họp chúng ta;  Ngài tiếp đón từng người như họ là, và trong Ngài chúng ta tất cả là anh chị em với nhau, con của cùng một Thiên Chúa Cha. Với  các vị đồng hành với anh chị em, anh chị em làm chứng cho tình huynh đệ, yêu thương trợ giúp nhau, tạo điều kiện cho nhau đi hành hương, và anh chị em trao ban chính Chúa Giêsu cho họ và cho tôi. Vì Chúa Giêsu đã muốn chia sẻ điều kiện của anh chị em, vì yêu thương, Ngài đã trở thành một người trong anh chị em: bị người khác khinh rẻ, quên lãng, một người không là gì cả. Nhưng Giáo Hội yêu thương và ưa thích điều Chúa Giêsu đã yêu thương và ưa thích.  Giáo Hội sẽ không an lòng cho tới khi nào không tới với tất cả những người  sống kinh nghiệm bị khước từ, loại bỏ và không có giá trị đối với người khác.

 

ĐTC cũng cám ơn các người đồng hành với đoàn hành hương người nghèo vì tất cả những gì họ đã làm để giúp các anh chị em này về hành hương Roma trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Họ đã trung thành với lý tưởng của cha Giuseppe Wresinski, chia sẻ cụ thể điều kiện sống của dân nghèo, chứ không yêu thương trong lý thuyết. Các lý thuyết trừu tượng dẫn đưa tới các ý thức hệ và các ý thức hệ dẫn đưa chúng ta tới chỗ chối bỏ rằng Thiên Chúa đã làm người như chúng ta. Cuộc sống chia sẻ với người nghèo biến đổi và hoán cải chúng ta. Anh chị em đã bước vào cuộc sống và sự thất vọng của người nghèo và đã dấy lên một cộng đoàn tái trao ban cho họ một cuộc sống, một căn cước, một phẩm giá. Và Năm Thánh Lòng Thương Xót là dịp giúp tái khám phá và sống chiều kích liên đới, huynh đề, trợ giúp và nâng đỡ nhau. Anh chị em hãy duy trì lòng can đảm giữa các âu lo, duy trì niềm vui và hy vọng. Ước chi ngọn lửa ấy đừng tắt ngấm nơi anh chị em.

 

ĐTC đã phó thác cho các anh chị em nghèo một sứ mạng: đó là cầu nguyện cho ơn hoán cải của tất cả những ai là nguyên nhân tình trạng sống nghèo túng của họ, để xin ơn hoàn cải cho họ; cầu nguyện cho biết bao nhiêu người giầu ăn mặc sang trọng, mở tiệc tưng bừng, nhưng không nhận ra biết bao nhiêu Ladarô nghèo trước cửa nhà thèm một chút thức ăn thừa từ bàn của họ. Cầu nguyện cho các tư tế, các lêvi tránh né và ngoảnh mặt đi qua, không cứu giúp người bị nạn dở sống dở chết. Cầu nguyện cho họ và cho biết bao nhiêu người khác dính líu tới cảnh nghèo túng và khổ đau của ho, mỉm cười với họ từ thâm tâm, cầu mong sự lành cho họ và xin  Chúa Giêsu hoán cải họ. Nếu anh chị em làm điều đó, tôi bảo đảm với anh chị em là sẽ có niềm vui lớn trong Giáo Hội, trong tim anh chị em và trong nước Pháp thân yêu (SD 6-7-2016)

Đức hồng y Raï: căn tính dân tộc của Liban đang bị đe doạ vì người tị nạn

Đức hồng y Raï: căn tính dân tộc của Liban đang bị đe doạ vì người tị nạn

Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Hoa Kỳ hồi cuối tháng Sáu vừa qua, Đức hồng y Bechara Boutros Raï – Thượng phụ Antiokia, Liban, thuộc nghi lễ Maronite – đã lưu ý về nguy cơ mà con số 1,5 triệu người tị nạn tại Liban có thể gây ra.

“Liban đã tiếp nhận hàng trăm ngàn người tị nạn từ Syria và từ Irak đã trốn khỏi đất nước họ vì chiến tranh và vì tình hình bất ổn về mặt chính trị. Những người này nghĩ rằng họ có thể trông chờ được Liban giúp đỡ khi gặp thiếu thốn. Liban quả là đáng được ca ngợi. Nhưng những người tị nạn này cũng có thể là một gánh nặng đe dọa căn tính và tương lai của xứ sở này”.

Trong bài phát biểu hôm 28 tháng Sáu vừa qua tại trụ sở của Hội Bác ái Công giáo vùng Cận Đông (CNEWA) ở New York, Đức Thượng phụ Bechara Raï đã nhấn mạnh rằng một giải pháp lâu dài cho cuộc khủng hoảng liên quan đến người tị nạn trong toàn vùng Cận Đông đòi phải có một nền hoà bình bền vững và việc đưa dần các người tị nạn về lại quê hương của họ.

Theo Đức Thượng phụ, cần phải tránh bằng mọi giá không để những người này định cư lâu dài tại Liban trong những điều kiện “nhiều khi rất bấp bênh và đôi khi tuyệt vọng”, biến những người tị nạn này, đa số theo Hồi giáo, thành “kho cung cấp nhân sự cho các tổ chức khủng bố”.

Hơn một triệu rưỡi người Syria tị nạn

Vì lý do chiến tranh diễn ra tại Syria từ tháng Ba 2011, hơn một triệu rưỡi người Syria (tức gần một phần ba của dân số 4 triệu người của  Liban) đã tìm nơi trú ngụ tại Liban, trong số này, chỉ có 1,2 triệu người được ghi danh  trong danh sách của Cao uỷ Liên hiệp quốc về người tị nạn (UNHCR). Lại còn phải thêm hơn 50.000 người Palestin và cũng con số này người Liban sinh sống tại Syria nữa, đã tới Liban. Ngoài ra, còn khoảng 400.000 người Palestin, là con cháu của những người đã chạy trốn hoặc bị trục xuất khỏi Palestin khi quốc gia Israel ra đời vào năm 1948, và họ không có quốc tịch Liban.

Theo Đức hồng y Raï, sự hiện diện đông đảo những người tị nạn này có nguy cơ làm đảo lộn các thế quân bình và cả căn tính của dân tộc Liban. Sau các vụ đánh bom tự sát diễn ra ngày 27 tháng Sáu trong vùng ngoại ô Al-Qaa có đông người Kitô giáo, ở Đông Bắc đồng bằng Békan, ngay sát biên giới Syria, nhiều địa phương đã thiết lập giờ giới nghiêm để kiểm soát việc di chuyển của người tị nạn Syria cư ngụ tại các địa phương này.

Theo nhật báo Liban L’Orient-Le Jour, hôm 30 tháng Sáu, ông Gebran Bassil Bộ trưởng Ngoại giao Liban nói rằng tất cả các người tị nạn không phải là những kẻ khủng bố, nhưng ông cũng nói thêm là thực sự đã có một số kẻ khủng bố trà trộn trong số người tị nạn,

Không thể không thành lập một quốc gia Palestin

Đức Thượng phụ Antiokia cho rằng cuộc xung đột Israel-Palestin là “nguồn gốc của các vấn đề vùng Cận Đông”. Theo ngài, cuộc xung đột này chỉ có thể được giải quyết “qua việc thành lập một quốc gia Palestin bên cạnh một quốc gia Israel, với sự trở về của các người tị nạn Palestin và việc quân đội Israel rút khỏi các vùng đất họ chiếm đóng tại Palestin, Syria và Liban”.

Đức hồng y Raï cho rằng việc tách biệt tôn giáo và chính trị quốc gia, “đối với Do Thái giáo cũng như đối với Hồi giáo”, là một trong những điều kiện căn bản của một giải pháp chính trị lâu dài trong vùng. Và ngài khẳng định rằng các vấn đề bắt đầu nảy sinh “khi người ta mặc nhiên kỳ thị các công dân không theo tôn giáo của quốc gia”.

Đức hồng y Raï kêu gọi Hoa Kỳ giúp “chặn đứng nạn chảy máu nhân lực qua việc người tị nạn bỏ xứ sở ra đi”, và nhấn mạnh rằng Liban có một vai trò không thể thiếu trong việc xây dựng hoà bình và ổn định tại Trung Đông, cũng như trong việc “củng cố tinh thần sống chung giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau trong vùng này”.

(Theo La Croix)

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm Assisi vào ngày 4 tháng Tám sắp tới

Ngày 04 tháng Tám tới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm Assisi thuộc vùng Umbria, Italia; vào buổi chiều, ngài sẽ viếng nhà nguyện Portiuncula: Chủ tịch Hội đồng về Tân Phúc âm hóa, Đức Tổng giámmục Rino Fisichella, đã loan báo như trên. Ngôi nhà nguyện nhỏ này ban đầu nằm trên mảnh đất thuộc DòngBênêđictô. Thánh Phanxicô hiểu rõ rằng ơn gọi của ngài là ở đây, và ngài đã bắt tay vào việc sửa sang ngôi nhà nguyện đổ nát này để trở thành trung tâm của Dòng Phanxicô. Ngày nay nhà nguyện Portiuncula nằm trong Vương cung thánhđường Đức Maria Nữ vương các Thiên Thần.

Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha đến Portiuncula diễn ra nhân kỷ niệm tám trăm năm “ơn đại xá Portiuncula”được Đức giáo hoàng Honorius III ban theo lời thỉnh cầu của thánh Phanxicô (năm 1216). Do ơn Chúa quan phòng, kỷ niệm này lại trùng với Năm Thánh Lòng Thương xót.

Trang web chính thức của Portiuncula cho biết Đức Thánh Cha “sẽ hành hương một cách đơn sơ và âm thầm tại Vươngcung thánh đường Đức Maria Nữ vương các Thiên Thần, tại đây ngài sẽ thinh lặng cầu nguyện và sau đó có một bài phát biểu”. Tất cả các tu sĩ dòng Phanxicô biết ơn Đức Thánh Cha và cầu xin Chúa chúc lành cho cuộc viếng thăm này.

Đây sẽ là chuyến viếng thăm thứ hai của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Assisi, sau chuyến viếng thăm đầu tiên vào ngày4 tháng Mười 2013, cùng với các thành viên của Hội đồng Hồng y tư vấn mới được ngài thành lập.

Cũng để tỏ lòng yêu mến Thánh Phanxicô, vào ngày 04-01-2016 Đức Thánh Cha đã bất ngờ đến thăm Greccio ở vùngApennines. Đây là nơi Thánh Phanxicô Assisi đã tái hiện khung cảnh Chúa Giêsu giáng sinh trong hang đá rất sốngđộng lần đầu tiên vào đêm 25-12-1223. Thánh nhân đã lấy cảm hứng từ mầu nhiệm Nhập Thể, vì ngài nhận ra sự khiêm hạ và nghèo nàn nơi cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu.

Đức Thánh Cha Phanxicô là vị Giáo hoàng thứ 19 đến viếng thăm Assisi nhưng ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên mang tên của Poverello, người-nghèo-bé-nhỏ thành Assisi.

(Theo Vatican Radio)

Trung Quốc: chính quyền tịch thu mọi khoản tiền quyên góp của các nhà thờ

Ôn Châu – Gần đây, chính quyền tỉnh Chiết Giang, miền duyên hải của Trung Quốc đã yêu cầu một số nhà thờ giao nộp cho chính phủ mọi khoản tiền có được, kể cả tiền dâng cúng của tín hữu. Đây là một động thái áp dụng chính sách mới của chính phủ.

Kể từ năm ngoái, chính phủ Trung Quốc đã gây áp lực buộc các nhà thờ phải thực hiện “5 điều cải cách”, bao gồm: “bản địa hóa tôn giáo (tức là áp dụng các phong cách kiến trúc địa phương cho nhà thờ), quản lý nhất quán, thần học chắt lọc (bằng những bài giảng định hướng), minh bạch tài chính và cải tạo các Kitô hữu”, nhằm trói buộc Kitô giáo vào khuôn khổ của một tổ chức đi theo mục tiêu của Đảng Cộng sản. Kết quả là chính phủ đã thiết lập các văn phòng chiếm không gian ngay trong các nhà thờ và cử cán bộ đến để quản lý chặt chẽ nhà thờ.

Chính quyền vừa triển khai thực hiện quy định mới này tại các nhà thờ ở huyện Bình Dương (Pingyang), Ôn Châu (Wenzhou), trong đó, các giáo xứ phải nộp toàn bộ số tiền quyên góp được cho chính quyền.

Một Kitô địa phương nói rằng: “… chính quyền sẽ can thiệp vào các công chuyện của giáo xứ, họ quản lý tiền dâng cúng của chúng tôi và một số dự án quy mô lớn. Khi chúng tôi muốn mua máy móc thiết bị hoặc đồ trang trí cho nhà thờ thì chúng tôi phải được chính phủ chấp thuận. Chúng tôi cũng phải xin phép nếu chi trả bất khoản tiền nào nhiều hơn một vài ngàn Nhân dân tệ”.

Hồi tháng 7 năm 2015, chính quyền địa phương đã bắt đầu cử cán bộ đến nói chuyện tại các nhà thờ và sắp đặt bàn làm việc của cán bộ ngay trong nhà thờ. Ngày 30 tháng 8 cùng năm, chính quyền ra lệnh rằng cán bộ nhà nước sẽ giám sát tất cả các nhà thờ ở Ôn Châu.

Theo một báo cáo chưa được xác nhận, chính quyền địa phương bây giờ còn đòi các nhà thờ phải treo quốc kỳ Trung Quốc trên đỉnh mái, ngay tại chỗ cây Thánh Giá đã bị phá bỏ trong một chiến dịch trước đây, và đặt quốc kỳ ở cả bục giảng lễ nữa.

Chân Phương

Thứ sáu tuần 14 Thường Niên

 

Ca Nhập Lễ

Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền thánh, chúng con hồi tưởng lại tình Chúa yêu thương. Danh thánh Chúa gần xa truyền tụng. Tiếng ngợi khen Ngài khắp cõi lừng vang. Tay hữu Chúa thi hành công lý.

Lời Nguyện Nhập Lễ

Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này; Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…

 

BÀI ĐỌC I: Hs 14, 2-10

“Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra”.

Bài trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: “Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lời Chúa và trở về với Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: ‘Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Assurô sẽ không giải thoát chúng tôi; chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm được sự thương xót’. “Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ, và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ôliu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban. “Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi sẽ sinh hoa kết quả. Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó”.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 8-9. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền lời ca khen Chúa (c. 17b).

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.

2) Nhưng Chúa ưa sự thật trong tâm khảm, và trong đáy lòng, Chúa dạy con điều khôn. Xin dùng cành hương thảo rảy con thanh khiết; xin tẩy rửa cho con được hơn tuyết trắng tinh.

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen.

ALLELUIA: Tv 129, 5

All. All. – Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy vào Chúa. – All.

PHÚC ÂM: Mt 10, 16-23

“Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. “Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến”.

Ðó là lời Chúa.

 

Lời Nguyện Tiến Lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin Chúa dùng của lễ chúng con dâng tiến để thanh tẩy và hướng dẫn chúng con, cho chúng con ngày càng biết sống thân tình với Chúa. Chúng con cầu xin…

Kinh Tiền Tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Vì thế, cùng với ca đoàn các Thiên thần, chúng con ca ngợi Chúa và hân hoan tuyên xưng rằng: Thánh! Thánh! Thánh!

Ca Hiệp Lễ

Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy. Hạnh phúc thay ai trông cậy nơi Người.

Lời Nguyện Hiệp Lễ

Lạy Chúa, chúng con vừa lãnh nhận hồng ân cao cả; xin cho chúng con được hưởng ơn cứu độ dồi dào và không ngừng chúc tụng tạ ơn Chúa. Chúng con cầu xin…

 

MỘT NHẬN ĐỊNH KHÁC VỀ THÁNH MARIA MAĐALÊNA

MỘT NHẬN ĐỊNH KHÁC VỀ THÁNH MARIA MAĐALÊNA

Ngày 03 tháng 6, 2016 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ký sắc lệnh nâng lễ nhớ Thánh Maria Mađalêna lên hàng lễ kính, ngang hàng với lễ kính các thánh Tông Đồ. Đức Tổng giám mục Arthur Roche, Thư ký Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Các Bí tích, viết: “Thánh Maria Mađalêna là gương mẫu đích thực của việc Phúc âm hoá. Thánh nữ là người đã rao giảng và loan báo tin mừng Chúa Phục sinh”. Người cũng nhắc đến Thánh Thomas đã tuyên xưng Thánh Maria Madalêna là vị “Tông đồ của các Tông đồ”. Nhân dịp này Kitô hữu chúng ta nên có một nhận định đúng về Thánh Mađalêna.

Thánh Mađalêna là nạn nhân của những âm mưu đen tối

Trong chiều hướng duy trí (intellectualism) và duy ngã (egoism) của thời hiện đại, ồn ào nhất là nhóm muốn phục hồi niềm tin‎ của Ngộ Giáo (Gnosticsm). Niềm tin này cho rằng khi trí tuệ của một người nào đó đạt tới mức thượng trí, người ấy có thể tự cứu độ cho mình. Định hướng sống đạo kiểu này có sức thu hút rất mạnh giới thanh niên. Họ muốn loại bỏ Giáo Hội Công Giáo vì cho là không cần thiết. Mở đường cho họ là một số học giả thiên về giáo lý của ngụy kinh (apocryphal gospels) và Ngộ Giáo (Gnostic gospels). Chúng là những kinh điển đề cao năng lực cá nhân. Robert Langdon và Leigh Teabing là hai người tiêu biểu cho khuynh hướng ấy. Hai ông vin vào kinh điển Ngộ Giáo và 2 sách phúc âm theo Philíp và Maria [Mađalêna] của ngụy kinh, để đưa ra luận chứng rằng có mối tình cảm trần thế giữa Đức Giêsu và bà Maria Mađalêna. Nhà văn Dan Brown phụ họa theo, ông sáng tác ra truyện “Da Vinci Code” kể rằng bà Mađalêna đã có con với Đức Giêsu. Brown khéo léo viết truyện theo dạng tài liệu nghiên cứu nên đã tạo được tiếng vang khắp thế giới. Hollywood cũng lợi dụng cơ hội vội dựng lên phim ảnh để trục lợi.

Ý đồ của họ là dùng bà Maria Mađalêna làm đòn bẩy để hủy bỏ vị thế “Đấng Cứu Thế Giêsu”, đồng thời hủy bỏ Kitô Giáo. Thánh Maria Mađalêna trở thành nạn nhân cho một âm mưu đen tối khi càng ngày càng có nhiều người lợi dụng sự mờ nhạt lịch sử, cố ý đưa ra những nhận định hàm hồ. (1) Bà là vị Tông Đồ duy nhất chịu rất nhiều ngộ nhận từ phía thế tục và đáng tiếc đã một thời từ phía Giáo Hội.

Bà Maria Mađalêna Trong Ngụy Thư

Như chúng ta đã biết, ngụy thư là những sách không được Công Giáo chấp nhận. Chúng có rất nhiều sai lạc không đúng với giáo huấn của Đức Giêsu. Vì nhóm Langdon và Teabing đưa ra dẫn chứng lấy trong phúc âm của Philíp và Maria [Mađalêna], nên các học giả công giáo cũng phải dùng hai sách này để thẩm định sự việc. Hai sách nói trên được viết vào khoảng cuối thế kỷ II hay đầu thế kỷ III. Điều đáng nói là sách không do Philíp và Maria viết, vì lúc đó họ đã qua đời. Giáo sư Susan A. Calef (2) có công khảo sát hai quyển sách trên để tìm hiểu về mối tình giữa Đức Giêsu và bà Maria Mađalêna. Trong sách của Philíp, bà chỉ thấy có chữ “cảm thương” khi diễn tả lòng nhân từ của Đức Giêsu dành cho bà Maria Mađalêna. Nhưng đây là lối bộc lộ tình cảm rất bình thường của Đức Giêsu đối với mọi người, đâu có gì đặc biệt. Trong sách của Maria có một đoạn nói rõ hơn. Đó là lần các tông đồ khiếu nại với Đức Giêsu rằng, “Tại sao Thầy lại yêu bà ấy hơn chúng tôi?” Nếu phân tích kỹ câu nói, người ta sẽ thầy nhiều điểm vô lý của nó. Nếu thật sự Đức Giêsu và bà Maria có tình nghĩa vợ chồng, không lẽ các Tông Đồ lại ganh tị với bà. Vì vậy trình thuật này có tính cách hoang đường và không đủ chứng cớ để đưa ra những nhận xét ác ý.

Thánh Maria Mađalêna Trong Chính Kinh

Cả bốn sách Phúc Âm chính kinh đều viết về bà Maria Mađalêna, nhưng lại không làm sáng tỏ vị thế đặc biệt của bà. Vậy bà Maria Mađalêna là ai? Tên thật của bà là Maria, bởi sinh trưởng ở xứ Mađala nên được gọi là Maria Mađalêna. Maria là một tên nữ rất thông dụng của dân Do Thái. Ngay mẹ của Đức Giêsu cũng có tên là Maria. Đa số các bà theo Đức Giêsu đều có tên là Maria. Thánh Kinh khi nhắc đến họ thường chỉ nói là “có bà Maria.” Vì vậy người đọc hầu như không thể xác định được người được nhắc đến là bà Maria nào.

Theo các giáo phụ Hy Lạp, trong số những môn đồ nữ của Đức Giêsu, có ba bà khác nhau nhưng đều mang tên Maria. Họ là:

  1. Bà Maria tội lỗi, người lấy nước mắt rửa chân cho Đức Giêsu (Lc 7:36-50).
  2. Bà Maria chị của Martha và Lazaru (Ga 11:1-3 và Lc 10:38-42).
  3. Bà Maria xứ Mađala, tức Maria Mađalêna, người bị 7 quỉ ám (Lc 8:2).

Theo truyền thống Protestant chỉ có hai bà Maria:

  1. Bà Maria xứ Bêthani, tức người đàn bà tội lỗi, cũng là chị em của Martha và Lazaru.
  2. Bà Maria xứ Mađala, tức người bị 7 quỉ ám.

Tuy nhiên theo truyền thống Tây Phương ba nhân vật nói trên lại chỉ là một người, mang tên Maria Mađalêna. Ngoài ra Thánh Kinh còn nói tới một cô gái giang hồ, tức người đàn bà phạm tội ngoại tình (Ga 8:1-11). Cũng theo truyền thống Tây Phương, bà Maria Mađalêna lại bị đồng hóa với cô gái này.

Đi tìm Thánh Mađalêna

Chúng ta hãy lần theo sử liệu để tìm hiểu tại sao lại có vấn đề bất nhất về sự nhận diện về bà Maria Mađalêna. Trước hết theo Thánh Sử Luca, Đức Giêsu gặp bà Maria “thứ nhất” tại miền Galilê. Bà Maria này được nhận diện là người đàn bà tội lỗi, người rửa chân cho Đức Giêsu (Lc 7:36-50). Kế đó Đức Giêsu rời Galilê đến một tỉnh nào đó và Người đã làm phép đuổi 7 quỉ ám ra khỏi bà Maria Mađalêna (Lc 8:1-3). Tuy Thánh Kinh không nêu địa danh nơi Đức Giêsu làm phép đuổi quỉ, nhưng căn cứ vào địa danh Mađala, người ta có thể biết Đức Giêsu đã đi về hướng Bắc của xứ Galilê. Thánh Luca không nói gì đến sự đồng nhất giữa bà Maria bị quỉ ám và bà Maria “tội lỗi” ở Galilê. Hơn nữa nếu bà Maria “tội lỗi” chính là bà Maria bị 7 quỉ ám tại sao Đức Giêsu không chữa cho bà ngay lần gặp gỡ đầu tiên? Sau đó Đức Giêsu đến một tỉnh khác, ta có thể phỏng đoán là tỉnh Bêthani. Tại đây Người gặp bà Maria, chị em của Martha và Lazarô (Lc 10:38-42). Căn cứ vào 3 địa điểm khác biệt và cách quãng, nên đã có khuynh hướng tin rằng có 3 nhân vật Maria khác nhau. Tuy nhiên Thánh Sử Gioan lại khẳng định 3 nhân vật trên chỉ là một người, đó chính là bà Maria Mađalêna (Ga 11:1-3; 12:1-3). Sự lẫn lộn hàm hồ bắt đầu từ đấy.

Đã có nhiều giả thuyết giải thích về sự khác biệt của sử liệu, nhằm mục đích thống nhất những cá biệt về một mối. Chẳng hạn có thuyết cho rằng Bà Maria Mađalêna vốn là người xứ Mađala, nhưng sinh sống ở Bêthani, và có một thời cư ngụ ở Galilê. Thần học gia Elizabeth A. Johnson phủ nhận ý kiến này vì nó đầy vẻ gượng ép. Elizabeth nhận xét rằng vì Thánh Gioan khẳng định 3 nhân vật nói trên là một người, nên tín hữu có khuynh hướng cố tình uốn nắn lý lẽ cho hợp với chiều hướng ấy.

Theo Elizabeth, Thánh Gioan viết Phúc Âm khoảng 50-80 năm sau khi Đức Giêsu chịu nạn. Thời gian 50-80 năm đủ để làm phai nhạt trí nhớ về độ chính xác của sự kiện. Hơn nữa thánh sử đặt trọng tâm vào sứ mạng truyền bá đạo lý hơn là việc ghi chép sử liệu. Do đó mọi tình tiết phụ thường chỉ dựa vào truyền thuyết mà viết lại, cốt sao cho câu truyện được đầy đủ mà thôi. Vào lúc ấy bà Maria Mađalêna đã qua đời. Những gì viết về bà dù không chính xác cũng không còn ai đính chính nữa. Một dẫn chứng về độ chính xác của Thánh Sử Gioan là biến cố bà Maria Mađalêna rửa chân cho Đức Giêsu. Cả hai thánh Máccô và Mátthêu đều nhất trí cho biết trước ngày lễ Vượt Qua 2 ngày, Đức Giêsu ở trong nhà ông Simon thuộc tỉnh Bêthani. Tại đây bà Maria Mađalêna đã rửa chân cho Đức Giêsu (Mc 14: 1-3; Mt 26: 1-8). Tuy nhiên Thánh Gioan lại kể rằng sự kiện rửa chân xảy ra tại nhà bà Martha trước lễ Vượt Qua 6 ngày (Ga 12: 1-3). Nếu không muốn chấp nhận có hai lần rửa chân, chúng ta đành phải lựa một bỏ một. Trong trường hợp này, sử liệu của hai thánh Máccô và Mátthêu chính xác hơn của Thánh Gioan. Bởi vì hai vị đều tường thuật như nhau. Hơn nữa sách của họ được viết sau biến cố phục sinh khoảng 10 – 20 năm, thời gian rất gần với biến cố nêu ra và còn được hỗ trợ bởi nhiều nhân chứng còn sống.

Chân dung thật của Thánh Maria Mađalêna

Như vậy những gì chúng ta biết chính xác về Thánh Maria Mađalêna đã được trình thuật trong thánh kinh là: bà là người xứ Mađala và là người bị 7 quỉ ám (Mc 16:9). Bà phụ giúp Đức Giêsu trong mọi hành trình rao giảng tin mừng (Lc 8:2-3). Bà là người đứng dưới chân Thánh Giá lúc Đức Giêsu từ trần (Mc 15:40; Mt 27:56; Lc 23:49; Ga 19:25). Bà chứng kiến cảnh táng xác Đức Giêsu (Mc 15:47). Bà là nhân chứng duy nhất đầu tiên của biến cố Đức Giêsu phục sinh (Ga 20:1-18). Với những sự kiện này, xét theo cương vị môn đồ, bà phải là một vị Tông Đồ có một vị thế rất cao trọng.

Sáu trăm năm sau, đại chúng dựa vào truyền thuyết cho rằng bà Maria Mađalêna là “người đàn bà tội lỗi” và là “người đàn bà ngoại tình.” Sự kiện này được hợp thức hóa bởi Giáo Hoàng Gregory Cả (590-604). Lỗi lầm về sự ngộ nhận này có thể hiểu là do sự vô ý hơn là chủ ý. Vào thời đó giáo hội không có lợi điểm lãnh hội sự đa dạng thâm sâu của thần học như ngày nay. Nhận định của Giáo Hoàng Gregory Cả chỉ là phản ảnh niềm tin của đại chúng. Theo truyền thống, tín hữu công giáo tin rằng người bị 7 quỉ ám phải là người tội lỗi nặng nề. Giáo Hoàng Gregory Cả nhận định 7 quỉ tượng trưng cho 7 tội, trong đó nặng nhất là tội dâm ô. Trong chiều hướng ấy giáo lý về “bảy mối tội” đã được giáo hội khai triển ra. Nghiên cứu về lịch sử, các học giả thấy rằng vào thời đó Giáo Hoàng Gregory Cả khởi xướng chương trình cải tổ nền luân lý Kitô giáo. Vì nhu cầu lợi ích cho giáo dân, giáo hoàng đặt bà Maria Mađalêna vào địa vị gương mẫu cho chủ thuyết của ngài. Người muốn đại chúng thấy một bằng chứng điển hình để chứng minh rằng kẻ tội lỗi nhất cũng có thể cải hóa để trở nên tốt lành.

Trên thực tế Thánh Kinh nói rất nhiều về trường hợp đàn ông bị quỉ ám, nhưng không có trường hợp nào nam nạn nhân bị gán là kẻ tội lỗi. Các thánh sử không hề đồng hóa sự việc bị quỉ ám với tội lỗi. Thần học cũng không thấy có sự liên hệ giữa hiện tượng quỉ ám và tội lỗi. Tại sao lại có thành kiến xấu về phía nữ nạn nhân bị quỉ ám. Thánh Kinh ghi rằng Đức Giêsu chữa lành bệnh quỉ ám cho bà Maria Mađalêna chứ không nói tha tội cho bà. Về vấn đề cô gái giang hồ, không hề có phúc âm nào, kể cả Phúc Âm theo Thánh Gioan, cho biết người đàn bà ngoại tình là bà Maria Mađalêna (Ga 8:1-11). Tại sao chúng ta phải gán cho bà những tội mà chứng cớ sử liệu không có. Các giáo phụ thời giáo hội sơ khai không hề nói bà Maria Mađalêna là người tội lỗi, trái lại các ngài rất tôn trọng bà. Câu tuyên bố nổi tiếng của bà với các Tông Đồ: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20:18) khiến các Tông Đồ cho bà là kẻ nói sảng (Lc 24:11). Nhưng chính câu tuyên bố ấy là nền móng xây dựng Giáo Hội Kitô và là bản tuyên xưng khải hoàn của Giáo Hội phục sinh. Cảm phục thành tích của bà, Thánh Hippolytus ở La mã (khoảng năm 200) đã đặt cho bà tước hiệu “Apostolorum Apostola” (Tông Đồ của các Tông Đồ). Hợp lòng với Thánh Hippolytus, Thánh Augustine  nói, “Chính Chúa Thánh Thần đã khiến bà Maria Mađalêna trở nên Tông Đồ của các Tông Đồ.”

Với một vị thế như vậy, tại sao Maria Mađalêna không được Kinh Thánh lưu ý một cách đúng mức? Thực ra Thánh Kinh đã có nêu tên bà một cách đặc biệt, nhưng vẫn còn vướng mắc trong nền văn hóa trọng nam khinh nữ. Vào thời đó người phụ nữ không có chỗ đứng trong xã hội. Họ không được nêu tên ra trước công chúng. Ngay cả mẹ Đức Giêsu cũng ít được nhắc đến. Các thánh sử khi nhắc đến họ thường dùng cách nói trống như “có mấy người phụ nữ” (Lc 23:55). Nếu có nhắc đến một cá nhân đặc biệt nào, người ấy thường được xác nhận nương vào tên của người đàn ông. Chẳng hạn “bà Maria vợ của Clôbát”, “bà Maria mẹ của Giacôbê” (Ga 19:25; Mc 15:40; Lc 24:10). Tuy thế tên của bà Maria Mađalêna đã được các thánh sử nhắc đến nhiều lần. Nhiều khi có nhiều bà hiện diện, nhưng thánh sử vẫn chỉ nêu danh của riêng bà: “Có bà Maria Mađalêna và những bà Maria khác” (Mt 28:1). Điều đó chứng tỏ bà là người nổi bật không thể bỏ qua.

Các học giả và thần học gia Công Giáo kêu gọi tín hữu hãy có một nhận định mới về Thánh Maria Mađalêna. Xưa kia bà đã là nạn nhân của sự ngộ nhận gán cho bà là kẻ đầy tội lỗi. Ngày nay bà lại là nạn nhân trong sự lợi dụng của phong trào đề cao cá nhân và hủy bỏ Giáo Hội. Thánh Maria Mađalêna đã được các học giả và thần học gia Công Giáo nhận diện là một trong những vị sáng lập ra giáo hội sơ khai. Bà là người duy nhất chia sẻ với Đức Giêsu trong hành trình giảng đạo từ Galilê, trung thành với Người cho đến phút cuối cùng của cuộc khổ nạn, và đón chào Người lúc phục sinh. Đó là những kho tàng ẩn dấu cần khai quật hơn là trưng bày những gán ghép lấy từ dã sử và truyền thuyết.

Theo truyền thống Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, Thánh Maria Mađalêna cùng Thánh Gioan và Đức Mẹ Maria di chuyển về miền Êphêsô, Tiểu Á. Thánh Maria Mađalêna sống một cuộc đời sám hối đúng với chân lý Phúc Âm rồi qua đời ở đó. Lễ kính Thánh Maria Mađalêna nhằm ngày 22 tháng Bảy. Từ năm 1970, Giáo hội Công Giáo đã điều chỉnh bài phúc âm trong thánh lễ. Bài đọc về câu truyện “người đàn bà ngoại tình” được thay thế bằng câu truyện bà gặp Đức Giêsu phục sinh (Ga 20:11-20). Thật đáng mừng Giáo Hoàng Phanxicô đã tôn vinh Thánh Maria Mađalêna ngang hàng với các thánh Tông Đồ. Kitô hữu chúng ta hãy rửa chân cho sạch bụi bặm của những bước đi lạc đường, để cúi đầu tôn kính một vị thánh cao cả.

Đỗ Trân Duy

____________________________________

(1) Phim “the Last Temptation of Christ” của Hollywood và sách “The Da Vinci Code” của Dan Brown có thể coi là tiêu biểu cho khuynh hướng sai lạc hiện nay.

(2) Susan A. Calef, Ph.D. thành viên trong ban giám đốc khoa thần học tại Creighton University, Omaha, bang Nebraska.