Home Blog Page 496

TÂM BÃO

TÂM BÃO

Trong năm 1980, một tờ báo phát hành trên toàn quốc có đăng một câu chuyện khác thường. Một người kia ra xe của ông đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:

“Thưa ông/bà;

Tôi đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ ‘Peace-Be-to-You’ (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính xe. Nó làm tôi do dự và suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà chắc chắn sẽ không có bình an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy bình an, vì đây là ‘chuyến ăn hàng’ đầu tiên của tôi.

Do đó, ‘bình an cho bạn’ và cho tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần sau đừng quên khóa cửa.”

Ký tên: “Người Muốn Ăn Cắp Xe.”

Câu chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người đã ban cho các môn đệ trong bài phúc âm hôm nay:

“Vào bất cứ nhà nào, trước hết các con hãy nói, ‘Bình an cho nhà này.’ Nếu một người yêu chuộng bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu không, hãy lấy lại lời chúc bình an.”

Áp dụng điều này vào câu chuyện nói trên, chúng ta thấy câu “Bình An-Cho-Bạn” đã nới rộng sự bình an của Đức Kitô đến cho người muốn ăn cắp xe. Tên trộm này là người bình an trong tâm hồn, và bình an của Đức Kitô đã ngự trên hắn ta.

Điều đó nêu lên một câu hỏi: Chúng ta muốn nói gì về “bình an của Đức Kitô”? Bình an đó được cấu tạo bởi những gì?

Khi Kinh Thánh dùng chữ bình an, nó có bốn ý nghĩa khác nhau.

Thứ nhất, nó được dùng trong ý nghĩa quân sự–để chỉ về sự thiếu vắng chiến tranh giữa các quốc gia. Do đó, chúng ta nói, “Các quốc gia đang sống bình yên.”

Thứ hai, nó được dùng ý nghĩa cá nhân–để chỉ về một cảm giác hạnh phúc của con người. Do đó, chúng ta nói, “Chúng tôi hòa thuận với nhau.”

Thứ ba, Kinh Thánh dùng chữ bình an trong ý nghĩa tôn giáo–để chỉ về một tương giao đúng đắn giữa Thiên Chúa và con người. Do đó, chúng ta nói, “Chúng ta hài hòa với Thiên Chúa.”

Sau cùng, Kinh Thánh dùng chữ bình an để chỉ một tình trạng mà trong đó mọi người trên mặt đất hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân, và với chính mình. Đây là điều chúng ta muốn nói qua chữ “bình an của Đức Kitô”.

Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn nói khi Người tuyên bố, “Thầy để lại bình an cho các con; chính bình an của Thầy mà Thầy ban cho các con” (Gioan 14:27). Vị linh mục nhắc lại lời này khi cử hành Thánh Lễ. Sự bình an này thì không gì khác hơn là Nước Thiên Chúa được trị đến trên mặt đất-là vương quốc mà chúng ta thường cầu xin trong kinh Lạy Cha khi chúng ta đọc, “Xin cho Nước Cha trị đến…”

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ hãy đem vào thế gian trong thời ấy. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.

Chúng ta sẽ là các khí cụ mà sự bình an của Đức Kitô sẽ được trải rộng đến mọi người trong mọi quốc gia trên thế giới.

Một loại suy sau đây có thể giúp chúng ta biết ý Chúa muốn chúng ta thi hành điều này như thế nào.

Khi gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm một giờ, người ta gọi nó là “typhoon” (bão lớn) khi xảy ra ở Thái Bình Dương, và gọi là “hurricane” (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây Dương.

Để có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa “frisbee” với một lỗ hổng ở giữa.

Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ. Đó là cơn cuồng phong hay cơn bão.

Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của nó-cái lỗ hổng ở giữa đĩa “frisbee”. Mặc dù gió lốc đang gào thét chung quanh tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ, nhưng ở tâm bão thì lại êm ả. Không có một chút gió lốc.

Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy bầu trời xanh và ánh nắng chói chang.

Tâm bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.

Có biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở trong thế giới này. Con người gào thét và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc gia khác.

Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang. Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui hưởng “bình an của Đức Kitô.”

Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải để chúng ta ở mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát.

Cũng như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể cũng chỉ khoảng một giờ.

Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm bão. Người muốn chúng ta đi vào cơn bão. Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian.

Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.

Người muốn chúng ta trở thành các khí cụ mà qua đó sự bình an của Đức Kitô được trải rộng trên toàn thế giới.

Và vì thế Kinh Thánh nói về bốn loại bình an: sự bình yên giữa các quốc gia, sự hòa thuận giữa chúng ta, sự hài hòa với Thiên Chúa, và bình an của Đức Kitô-đó là một tình trạng mà mọi người trên thế giới hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình.

Sự bình an sau cùng này, bình an của Đức Kitô, thì không gì khác hơn là sự trị đến của Vương Quốc Thiên Chúa.

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã thể hiện khi làm người.

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đem vào thế gian trong thời đại của họ.

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền chúng ta phải đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.

Chính sự bình an này mà chúng ta cầu xin Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta vào sáng hôm nay:

“Lạy Chúa, xin giúp con trở nên khí cụ bình an của Chúa,

Để nơi thù hận, con đem đến tình yêu;

nơi xúc phạm, con đem đến tinh thần tha thứ;

nơi nghi kỵ, con đem đến niềm tin;

nơi bất hoà, con đem đến sự hoà hợp;

nơi thất vọng, con đem đến hy vọng;

nơi bóng tối, con đem đến sự sáng;

nơi buồn sầu, con đem đến niềm vui.

Lạy Chúa, xin hãy dạy con

tìm an ủi người hơn được người ủi an,

tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết;

tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.

Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ;

chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân;

chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”

(Thánh Phanxicô Assisi)

 

Lòng tốt

Lòng tốt là những việc làm cao đẹp nhằm giúp đỡ người khác. Lòng tốt đã tồn tại nơi con người từ khi họ xuất hiện trên trái đất, như một thuộc tính được Thượng đế phú bẩm. Nhờ lòng tốt, con người quan tâm và sống tình liên đới với tha nhân.
Trong một xã hội hiện đại, lòng tốt càng ngày càng hiếm và trở thành một thứ “xa xỉ phẩm”. Những hành động tự nó là đơn giản, nhằm giúp đỡ người khác trong mối tương quan người với người đã trở thành “hành động lạ” và hiếm hoi. Gần đây, một số báo điện tử đưa tin và hình ảnh anh lái xe taxi đã dừng xe để đưa một cụ già sang đường ở Hà Nội. Hành động này lập tức được coi là một “hành động lạ”, được nhiều người tán dương và bình luận với những ý kiến rất tích cực. Giúp đỡ người cao tuổi là lời khuyên của ông bà cha mẹ đối với trẻ em khi chập chững vào đời và là bài học thời “vỡ lòng” mà nay được coi như một nghĩa cử anh hùng! Bởi lẽ những hành động này rất ít thấy trong cuộc sống, do nhiều nguyên nhân khác nhau: hoặc người ta quá bận rộn, không có thời gian, hoặc con người đã trở nên vô cảm dửng dưng đối với người khác. Cũng có khi lòng tốt bị nghi ngờ, dẫn đến hậu quả là “làm phúc phải tội”, từ đó nảy sinh tình trạng “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”.

Từ bao đời nay, cuộc sống ở nông thôn vẫn được coi là thân thiết, nặng tình nặng nghĩa. Hàng xóm láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau, vui buồn cùng chia sẻ. Tuy nhiên, cuộc sống an bình này cũng đang thay đổi. Do phong trào thành thị hoá nông thôn, tình làng nghĩa xóm đang dần trở nên khô khan, cách biệt. Cùng với những bức tường ngăn cách mỗi gia đình để bảo đảm an ninh và thiết lập một không gian riêng, những người láng giềng vốn gắn bó bỗng trở nên xa cách, theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng”. Lòng tốt trở nên càng ngày càng hiếm.

Trong bối cảnh xã hội còn tồn tại nhiều tiêu cực, niềm tin đã bị đánh cắp. Đã có nhiều cá nhân và tổ chức nhân danh “từ thiện” để trục lợi bất chính. Đây là những hành động vô luân trái với đạo đức, vì họ lợi dụng người nghèo hoặc nỗi đau của những bệnh nhân để kiếm tiền. Thời gian qua, nở rộ những công ty, những văn phòng huy động vốn với danh nghĩa “giúp người nghèo vượt khó”, nhưng thực chất là lừa đảo, làm cho người nông dân đã nghèo nay thêm khốn đốn vì nợ nần chồng chất chưa biết đến bao giờ mới có khả năng trả nợ. Đơn cử trường hợp Trung tâm hỗ trợ người nghèo ở huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá (x. bài viết trên Báo điện tử Lao Động, ngày 21-6-2016). Nạn nhân là những người nông dân ít học, dễ tin và ôm ấp giấc mơ nhanh chóng đổi đời, nhưng niềm tin của họ đã bị trao nhầm chỗ.

Vào thời bùng nổ thông tin như hiện nay, một số phương tiện truyền thông có khuynh hướng chú trọng đến những tin tức giật gân, thu hút sự tò mò của độc giả, thính giả. Mỗi khi vào các báo điện tử, những tin tức được đọc nhiều nhất thường là những vụ giết người cướp của, những cuộc tình tay ba tay tư, những vụ đánh ghen hoặc những bê bối liên quan đến giới nghệ sĩ, người mẫu, trong khi những người tốt việc tốt ít được đề cập. Thực ra, giữa một xã hội có nhiều bóng tối, vẫn có nhiều lắm những người hy sinh âm thầm phục vụ tha nhân, trong số đó, phải kể đến những bác sĩ tâm huyết cứu người; những thày cô giáo âm thầm mang cái chữ lên vùng cao cho trẻ em thiểu số; những tu sĩ phục vụ trong các trại phong, hoặc trung tâm chăm sóc bệnh nhân SIDA hay khuyết tật; những bạn trẻ thiện nguyện miệt mài tham gia những phong trào làm cho cuộc sống xanh sạch đẹp, những lái xe taxi tuy nghèo nhưng tìm trả lại tiền của khách để quên; những em sinh viên nhặt được của rơi tìm trao lại cho người đánh mất… Họ là những đốm lửa bừng sáng trong đêm đen, đem niềm vui cho cuộc đời và góp phần làm lan toả hương thơm của lòng nhân ái.

Thực thi những nghĩa cử tốt đẹp để giúp người khác là nét đẹp truyền thống của người Việt Nam chúng ta. Trong kho tàng văn hoá của dân tộc, tình tương thân tương ái được thể hiện qua những câu ca dao tục ngữ, những làn điệu dân ca, những lời ru ầu ơ của mẹ và những lời dạy của các bậc thánh hiền. Những lời dạy đơn sơ mà phong phú ấy đã góp phần làm nên tâm thức “thương người như thể thương thân” của con Lạc cháu Hồng. “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Đối với những người Việt sống xa quê, tình tương thân tương ái vẫn ghi sâu nơi tiềm thức của họ và được cụ thể hoá qua những nghĩa cử nhân ái, quảng đại giúp đỡ người nghèo.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng tốt trong mối tương quan huynh đệ giữa con người với nhau. Người dạy: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12). Người cũng dạy, hãy cho đi một cách vui vẻ mà không cần tính toán. Một tấm lòng quảng đại, quan tâm đến người khác sẽ được chính Thiên Chúa đền bù và trọng thưởng: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người ta sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Qua dụ ngôn người Samari nhân hậu, Chúa Giêsu đã ca ngợi lòng tốt của một “người ngoại”. Người này đã cảm thương và cứu giúp người bị nạn không hề quen biết, đồng thời chăm sóc chu đáo tận tình. Bài học rút ra từ câu chuyện dụ ngôn này là lời khuyên: “Hãy đi và làm như vậy!” (x. Lc 10, 29-37).

Lòng tốt của Thiên Chúa là một điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Thánh Kinh. Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành. Lòng Tốt của Ngài được diễn tả bằng nhiều danh xưng khác nhau: sự thánh thiện, lòng nhân hậu, lòng thương xót, lòng kiên nhẫn, lòng bao dung tha thứ. Lòng tốt của Ngài là mẫu mực cho con người, như đích điểm mà con người phải phấn đấu để đạt tới: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5,48). Nên hoàn thiện, trước hết là những cố gắng loại bỏ khiếm khuyết nơi bản thân, và sau đó là thể hiện lòng tốt qua những nghĩa cử cao đẹp đối với những người xung quanh. Đức ái là điều răn quan trọng nhất của những ai tin Chúa, đến nỗi khi thi hành đức ái là họ đã chu toàn Lề Luật (x. Rm 13,10). Khi thực thi lòng tốt với tha nhân, người tín hữu tin rằng họ đang phản ánh lòng nhân hậu của Thiên Chúa, bởi lẽ, Thiên Chúa là Đấng “chậm giận và giàu tình thương” (Tv 102, 8).

“Lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy
” (Mark Twain, nhà văn người Mỹ 1835-1019). Lòng tốt đích thực không dựa trên những “lời có cánh”, nhưng xuất phát từ trái tim và làm cho người khác dễ dàng cảm nhận. Lòng tốt toả hương thơm như đoá hoa, không ồn ào gây chú ý, không giả tạo lấy tiếng khen, nhưng chân thành và hướng tới tha nhân với tâm tình yêu thương trìu mến.

Ai trao tặng lòng tốt thì chính mình sẽ được nhận lại. Rainer Maria Rilke, nhà thơ người Áo (1875–1926), đã viết: “Có điều kỳ diệu xảy đến với những người thực sự biết yêu thương: họ càng cho nhiều, họ càng có nhiều”. Thánh Phanxicô thành Axidi khẳng định với chúng ta: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh; chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần cảm nghiệm được điều kỳ diệu này trong cuộc sống: khi cho đi là chúng ta nhận lại. Người châu Phi có câu ngạn ngữ: “Lòng tốt như ngọn lửa, càng cho đi, càng lan rộng và lớn mãi”. Bạn và tôi, ngày hôm nay, chúng ta hãy cố gắng để thực hiện một nghĩa cử tốt đẹp, dù rất nhỏ bé và đơn sơ, đối với những người chúng ta gặp gỡ. Những lời nói tốt đẹp thân thiện nhằm động viên khích lệ người đang buồn bã bi quan, hay sự giúp đỡ người cô thế cô thân về tinh thần hoặc vật chất, rất cần thiết trong mối tương quan với đồng loại. Có thể sự giúp đỡ ấy chẳng làm được gì lớn lao hay không mang tham vọng thay đổi thế giới, nhưng chắc chắn một điều, Bạn và tôi, chúng ta cảm nhận được niềm vui vì được góp phần diễn tả lòng tốt của Thiên Chúa trong cuộc đời.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

TẠI SAO HAI THÁNH TÔNG ĐỒ CẢ LẠI ĐƯỢC MỪNG LỄ CHUNG VỚI NHAU?

Một số thánh nhân, vì là anh em với nhau, vì cùng tử đạo, vì là mẹ con, vì có những điểm chung nhất, nên được mừng lễ trùng ngày với nhau hoặc sát gần nhau. Vậy thánh Phêrô và thánh Phaolô tương quan với nhau thế nào mà lại có ngày lễ kính cùng với nhau?

Đức Tổng Giám Mục Patrick Flores đã từng đặt câu hỏi này với giáo dân trong bài giảng của mình. Và rồi ngài tự trả lời cách hóm hỉnh: “bởi vì hai thánh nhân không thể sống chung với nhau được trên thế gian, nên Chúa bắt các ngài phải chung với nhau trên thiên đàng.”(!)

Câu chuyện hài hước này rất có cơ sở. Thánh kinh cho thấy hai ông thật sự khác biệt nhau về tính cách, chênh lệch nhau về đẳng cấp:

· Người kém văn hóa, kẻ trí thức cao

· Người đã có vợ, kẻ vẫn độc thân

· Người rút gươm bảo vệ Chúa, kẻ phóng ngựa truy giết những ai theo Chúa

· Người giảng dạy cho giới đã cắt bì, kẻ loan Tin Mừng cho dân ngoại.

Chính thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Galata đã thừa nhận sự đụng độ với thánh Phêrô ở Antiokia. Ông đã cự lại thánh Phêrô vì đã không dám công khai dùng bữa với lương dân như trước khi nhóm cắt bì đến (từ cự lại là nguyên văn của Phaolô trong Gl 2, 11).

Điều rất dễ thương là, trong tất cả sự khác biệt cũng như cãi vã đó, thánh Phaolô luôn nhìn nhận vị trí quan trọng của thánh Phêrô với tư cách là người đầu tiên được Chúa Giêsu cho thấy Người đã phục sinh (1Cr 15, 5), một tư cách xứng đáng với cương vị thủ lĩnh. Một sự trân trọng rất tuyệt đến nỗi tính cách khác biệt không hề làm cản trở sứ mạng và lý tưởng của hai thánh nhân. Phần mình, thánh Phêrô cũng không kém cao thượng khi bắt tay Phaolô để tỏ dấu hiệp thông (Gl 2,10). Điểm độc đáo này được Giáo Hội đưa vào kinh tiền tụng trong ngày lễ 29/06: “các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Ðức Kitộ” Để rồi từ những khác biệt tính cách và mâu thuẫn đường lối đó, các ngài đã trở thành:

Hai người tiên phong, hai sao sáng đi đôi và hai tướng anh hùng.

 

Thế còn anh và em? Còn bạn và tôi thì sao?

Dĩ nhiên chúng ta thế nào cũng có các điểm khác biệt, và dĩ nhiên chúng ta đã từng cãi vã, giận hờn. Không ít lần chúng ta đặt câu hỏi tại sao và tại sao người mà mình trọn niềm tin tưởng lại cư xử như thế. Đã nhiều lần ta như muốn buông một bàn tay thân yêu, rời xa một bờ vai thân thiết, phớt lờ một ánh mắt thân thương. Chỉ vì những khác biệt, chỉ vì không hiểu nhau.

Khác biệt giữa Phêrô và Phaolô làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng trở nên phong phú hơn. Các khác biệt của chúng ta lẽ ra là để bổ sung cho nhau và để làm cho đời ta thêm màu hương sắc, cũng như các giới hạn của cá nhân là để chúng ta cần đến nhau hơn trong cuộc trần này. Điều quan yếu là ta biết trân trọng người khác và chiến thắng cái tôi ích kỷ.

Phêrô và Phaolô, hai ngôi sao “chỏi” tỏa sáng trên bầu trời Thiên quốc, hai con người Phêrô và Phaolô trở thành đồng trụ và bàn thạch cho tòa nhà Giáo Hội. Tình yêu đối với Chúa Giêsu làm nên điều kỳ diệu này. Chỉ có tình yêu đủ lớn mới có thể làm cho các bất đồng giữa vợ chồng, giữa bạn bè trở thành một liên kết phong nhiêu, một tương giao phong phú. Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có tình yêu còn ở lại.

Anh và em, bạn và tôi đã giận hờn, tranh cãi, thậm chí căm thù nhau trong quá khứ. Có những điều cứ tái đi tái lại nhiều lần như một căn bệnh mãn tính, nan y. Chúng ta có quá nhiều khác biệt mà. Vẫn biết gương vỡ khó lành, vẫn biết ly nước đổ ra không thể lấy lại hết, nhưng tình yêu sẽ bù đắp tất cả và tình yêu sẽ làm cho tấm gương và ly nước lấy lại sau đó trở nên kỳ thú hơn, ngon lành hơn.

Có bao giờ chúng ta trân trọng nhau cho đúng mức không? Có bao giờ anh và em cầu nguyện cho nhau rồi nói với Chúa về những lỗi lầm, yếu đuối của nhau chưa? Có bao giờ bạn và tôi, chúng mình cùng cầu nguyện với nhau để chấp nhận các khác biệt của nhau mà mưu cầu công ích, mà lo cho đại cuộc không? Đã bao giờ tôi nhìn ra được khía cạnh tốt đẹp của sự khác biệt, để yêu mến những gì “bất thường” nơi anh em, và phát huy những gì “cá biệt” của tôi nhằm hướng tới những điều cao quý hơn chưa?

Xin hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô giúp chúng con biết kết hợp các tính tình khác biệt để làm cho cuộc đời này thêm vui tươi và phong phú.

 

Linh mục Pr. Nguyễn Đức Thắng

NGOẠI TÌNH TƯ TƯỞNG CÓ LỖI KHÔNG?

 

Ranh giới của tư tưởng mong manh đến mức khó đặt ra giới hạn. Chuyện bắt đầu từ những rạn vỡ khi sợi dây của tâm hồn bắt đầu đổi thay lạ lẫm.

Chẳng ai muốn tồn tại trong cuộc hôn nhân ít vị. Thế nhưng không ít cặp vợ chồng khi đã có con với nhau, sống bằng tình thương và trách nhiệm là chính. Kiểu trách nhiệm vì ta đã chọn nên phải giữ. Hay đó là kiểu trách nhiệm cứ cố gắng vì con…

Cô đơn trong chiếc áo hạnh phúc

Cưới nhau hơn mười năm, hai vợ chồng có đủ những gì cần có của một cặp vợ chồng trẻ. Một gái, một trai, một căn hộ, hai xe máy xịn nhất nhì. Nhưng chỉ người trong cuộc mới hiểu những gì đang diễn ra trong cuộc sống của họ.

Hằng ngày, chị chẳng biết làm gì khi đêm xuống thật sự lúc hai con đã ngủ. Vì anh chẳng còn nói chuyện với chị sau khi mặt trời lặn đã ba năm nay do bận bịu. Rời khỏi công ty rất muộn, anh vẫn còn những hợp đồng, mối quan hệ cùng với đối tác.

Nhưng chị đã quen dần nên chẳng đợi, chẳng trông. Hình ảnh ai đó của khu cao ốc đối diện đứng nhìn thành phố lên đèn thường xuyên làm chị nhớ. Nhiều khi chẳng rõ anh ấy là ai nếu không vô tình nhìn thấy cái đầu húi cua mới ủi ngay siêu thị mini khu cao ốc tuần rồi.

Chị nhìn anh, anh nhìn chị. Cả hai chẳng nói gì chỉ gật đầu nhè nhẹ. Nhìn mà chẳng nói, chị biết tim mình nhún nhảy. Sự nhún nhảy bất thường của trái tim khô cằn vì kiểu ràng buộc trách nhiệm non nớt, mỏng dính những rung động của tình yêu sau hôn nhân.

Thực tế, đó là kiểu ngoại tình tư tưởng.

Nhiều khi chẳng phải không hài lòng về cuộc sống sau hôn nhân, cũng chẳng phải có người thứ ba rõ ràng và cụ thể để hành vi ngoại tình xuất hiện. Nhưng chữ “phụ” cứ len lỏi và vụt sáng đôi khi nếu mối quan hệ chung sống sau hôn nhân dần dần trở nên nứt nẻ…

 

Nứt nẻ ở đây là do lằn ranh của sự tương tác, do sự gắn kết dần buông keo, do sự cảm nhận về bóng hình lý tưởng thay đổi dẫu mơ hồ, dẫu lung bung không định dạng.

Nhiều khi người ta cô đơn ngay trong chính ngôi nhà của mình. Chẳng cần lãng mạn, chẳng cần quá tham lam, chẳng cần quá đa tình, phụ nữ dễ để tâm hồn lang thang vì tổn thương tự thân xuất phát từ lòng tham, từ cái nhìn phóng chiếu về một khái niệm hạnh phúc mang tính mơ hồ…

Không chỉ dừng lại ở mức độ ấy khi sự thật của hành vi đã bắt đầu manh nha. Bắt đầu cảm thấy người chung sống với mình bây giờ khác xưa nhiều quá. Mọi thứ cứ vụn rơi dần…

Không biết tự thuở nào, anh với chị mất dần cảm xúc khi gọi nhau bằng anh bằng em hay tên của nhau ngọt lịm. Thay vào đó là kiểu nói trống không: “Ăn cơm không, dọn nhé!”. Tin nhắn của anh cũng gọn đến mức bất ngờ: “Vễ trễ! Sau 11 khuya!”.

Cũng chẳng biết từ bao giờ hình ảnh của vài người đàn ông trong những câu chuyện soái ca đa tình của một trang web trở thành bạn của chị. Nhiều khi chẳng biết làm gì, chỉ biết xem và ngẫm…

Nhưng người trong cuộc không gặp, không nói chuyện bằng điện thoại, không muốn thân hơn. Cảm giác cứ thấy có lỗi cứ đeo mang nhưng rồi tự tha thứ cho mình. Vì có làm gì đâu ngoại trừ những lúc mân mê chiếc điện thoại như một thói quen trong tiềm thức.

 

Không có lỗi, sao kết án mình là kẻ ngoại tình? Nhưng nếu chẳng phải thình lình nhớ, thình lình thương sao chẳng thể buông chiếc điện thoại dù đôi khi chỉ là câu bông đùa vớ vẩn…

Tình trạng xa xót, cô đơn ấy là kiểu cảm xúc của ngoại tình tư tưởng. Không hài lòng về người chung sống, người ta bắt đầu thấy mình khó thở. Lại mơ, lại ngờ, lại mộng, lại không, không ít người vợ thở dài trong tâm tưởng hai chữ ngoại tình tưởng tượng.

Lối thoát cho tâm hồn

Thật xót xa khi ngọn lửa tình yêu lụi tàn mà chiếc đuốc hạnh phúc vẫn cứ trưng trổ bằng sĩ diện. Nhưng họ là người có lý trí nên có thể chỉ ngoại tình tư tưởng. Cái có thể này đó chính là hành lang giải thoát cho hành vi không phạm lỗi.

Kiểu suy nghĩ về tình yêu này là biểu hiện của sự tự nguyện ký kết hợp đồng ràng buộc đời mình cho một khung cửa sổ, một căn chung cư hay một biệt thự hào nhoáng đầy màu sắc hạnh phúc bên ngoài nhưng bên trong cứ cô đơn đến lạ…

Trái tim cứ đập theo những trách nhiệm thì thật là chán chường đến mức tệ hại. Nhưng chẳng thể cho mình chọn lựa.

Cứ cho phép mình trong tâm tưởng có một góc riêng, cứ cho phép mình lãng mạn thêm chút khi gặp ai đó trong thực tế tương thích với mong mỏi của chính mình… thời hiện tại!

Cũng chẳng biết hành vi ngoại tình tư tưởng này sẽ diễn tiến ra sao. Cái gọi là hành vi nói thế thôi nhưng màu sắc và bản chất thì hẳn là cảm xúc. Đó chính là kiểu phản ứng gắt gỏng với người chung sống, là vài phút buông rơi con để ôm khư khư chiếc laptop của riêng mình…

Không chỉ thế, còn là vài giờ cho con tim mình lén lút đi hoang, vài buổi cho mình tự gây nhớ thương đối tác và kịp thời dừng lại vì biết rằng chỉ vui vậy thôi chứ không muốn khác…

Thế nhưng, mọi sự sẽ không thể dừng lại khi đến một ngày nào đó cảm xúc sống thật cứ chực chờ bùng nổ. Đến khi không thể nong vành trái tim chịu đựng, người ta có thể sẵn sàng thay “van tim tình yêu” bởi muốn sống cho mình, muốn đi tìm chân trời hạnh phúc.

Không ai có thể phủ nhận sức mạnh của tư tưởng. Cũng chính sức mạnh của tư tưởng, suy nghĩ nên không thể kiểm soát được cảm xúc và hành vi tịnh tiến.

 

Mọi thứ có thể xuất hiện và ta quỵ ngã ngay trong chính bức tường giới hạn của mình là không phạm lỗi.

Vậy sao chúng ta không quay lại tìm sự đồng cảm, sẻ chia từ chính người chung một mái nhà? Nếu thấy chẳng thể như xưa sao không nói với nhau để cùng điều chỉnh?

Thay đổi từ sớm và nhận ra những tín hiệu đáp ứng sau kích thích thẳng thắn với người ấy sẽ làm mỗi người ít nguy cơ tổn thương khi đã lỡ chủ quan thái quá! Đó là hành vi và thái độ trách nhiệm để dựng xây tổ ấm của mình.

Ngoại tình tư tưởng còn là kiểu cố gắng duy trì một mối quan hệ không vượt giới hạn với đối tác khác.

Đó là kiểu hành vi không mà có, có nhưng không! Vì chẳng cho phép mình hẹn hò riêng khi mình đã có gia đình. Cũng chẳng cho phép mình tạo cơ hội để người ấy biết cảm xúc của ta dày lắm, sâu lắm đến mức hình ảnh người ấy dần choáng ngợp trong tâm trí.

Chẳng thể kết án cho một hành vi ngoại tình tư tưởng khi mọi thứ vẫn còn an toàn. Tuy nhiên có lẽ đó chỉ là bề mặt!

Hệ lụy không phải là chuyện hôm nay, mà là chuyện của mai sau. Đó chính là những tan vỡ được tiên lượng từ trái tim…

HVS

 

Đức Thánh Cha tông du Armenia: đến thăm tu viện Khor Virap

Đức Thánh Cha tông du Armenia: đến thăm tu viện Khor Virap

Chúa nhật 26 tháng Sáu là ngày cuối cùng chuyến tông du Armenia của Đức Thánh Cha Phanxicô. Buổi sáng, Đức Thánh Cha đã gặp các giám mục Công giáo Armenia tại Điện Tông toà của Thượng phụKarekin ở Etchmiadzin. Sau đó Đức Thánh Cha tham dự Giờ kinh Phụng vụ theo nghi lễ Armenia của Thánh Grêgôriô Người Khai sáng, do Đức Thượng phụ Karekin II chủ sự. Giờ kinh được cử hành cách rất long trọng, kéo dài gần 2 giờ 30 phút, và được cử hành ở ngoài trời thay vì trong nhà thờ theo như truyền thống. Sau khi dùng bữa trưa với Đức Thượng phụ, các Tổng giám mục và giám mục của Giáo hội Tông truyền Armenia, cũng như các giám mục Công giáo Armenia, Đức Thánh Cha đã gặp các vị đại diện và ân nhân của Giáo hội Tông truyền Armenia. Trong dịp này Đức Thánh Cha đã ký Bản tuyên bố chung với Đức Thượng phụ Karekin II.

Buổi chiều Đức Thánh Cha đã đến thăm tu viện Khor Virap gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một cử chỉ mang tính biểu tượng, để tôn vinh Thánh Grêgôriô Người Khai sáng – là Cha thiêng liêng của Armenia. Hướng dẫn Đức Thánh Cha viếng thăm tu viện này, một trong những nơi linh thánh nhất của Armenia, có Đức Thượng phụ Karekin II và cácnhà lãnh đạo khác của Giáo hội Tông truyền Armenia.

Tu viện này là nơi Thánh Grêgôriô Người Khai sáng bị giam giữ hồi cuối thế kỷ thứ ba, trong suốt 13 năm, vào thời các Kitô hữu bị vua Tiridates III bách hại. Do sự kiện được chữa khỏi một chứng bệnh nặng nhờ lời cầu nguyện của ThánhGrêgôriô, nhà vua và hoàng gia đã hoán cải và công nhận Kitô giáo là tôn giáo chính thức của vương quốc Armenia; quốc gia Kitô giáo đầu tiên trong lịch sử, 12 năm trước đế quốc Roma.

Chính để bày tỏ lòng cảm kích cuộc hoán cải này mà Đức Thánh Cha đã đến thăm tu viện Khor Virap.

Tại đây đã diễn ra một cử hành phụng vụ ngắn với những bài cầu nguyện bằng tiếng Armenia và tiếng Ý. Có người nói, cây nến được người chưởng nghi thắp cho Đức Thánh Cha đã bị một luồng gió thổi tắt, và Đức Thượng phụ Karekinliền đưa cây nến của mình cho Đức Thánh Cha: thật là một biểu tượng đẹp của sự cộng tác giữa hai nhà lãnh đạo Giáo hội, đã cùng nhau trải qua thời khắc chính yếu của ba ngày này.

Sau đó Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thượng phụ Karekin II đến đứng trước ngọn núi Ararat, chúc lành cho vùngđất thiêng liêng này, vốn được văn hóa Armenia coi là nơi diễn ra câu chuyện con tàu Noe trong Kinh Thánh. Hai vị đãthả chim bồ câu và cùng hoà theo lời kinh Vinh danh do một ca đoàn xướng hát.

Cuộc trở về nguồn mạch linh đạo Armenia này một lần nữa lại là cơ hội để thể hiện sự xích lại gần nhau giữa Giáo hội Công giáo Roma và Giáo hội Tông truyền Armenia.

Đó cũng là hoạt động cuối cùng trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Armenia. Sau đó, Đức Thánh Cha đã ra sân bay quốc tế ở Erevan để trở về Roma. Máy bay của Đức Thánh Cha đã đáp xuống sân bay Ciampino ở Roma lúc 20g30 Chúa nhật 26-06, theo giờ Roma, kết thúc chuyến tông du thứ 14 bên ngoài Italia.

Và theo thông lệ, trước khi về Vatican, Đức Thánh Cha đã đến Vương cung thánh đường Đức Bà Cả để cầu nguyện trước bức ảnh icôn “Đức Mẹ che chở Dân thành Roma” (Salus Populi Romani), tạ ơn về chuyến đi bình an, tốt đẹp.

Đức giáo hoàng Phanxicô và Giáo triều mừng 65 năm linh mục của Đức Bênêđictô XVI

Ngày 28 tháng Sáu 2016, trong một góc Hội trường Clêmentê của Dinh Tông Toà, tại chính nơi Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã làm thế giới phải ngạc nhiên khi tuyên bố từ nhiệm, đã diễn ra lễ mừng 65 năm linh mục của ngài.

Đức Bênêđictô XVI, luôn kín đáo và khiêm tốn, mỏng manh nhưng rất chăm chú, trong bộ y phục trắng, đã tỏ ý mong muốn buổi lễ diễn ra đơn giản. Ngài ngồi bên phải Đức giáo hoàng Phanxicô, trên một cái ghế riêng, đối diện với các hồng y của Giáo triều, một số giám mục và khách mời. Anh của Đức Bênêđictô là cha Georg, thụ phong linh mục cùng ngày với ngài vào năm 1951 tại Bayern, miền nam nước Đức, hẳn cũng đã muốn có mặt.

Đức Bênêđictô chăm chú lắng nghe Đức giáo hoàng Phanxicô cám ơn ngài vì đã tiếp tục phục vụ Giáo hội “với đời sống và chứng từ mạnh mẽ và chói sáng về tình yêu Thiên Chúa chứa đầy trong lòng, giúp chúng ta hân hoan nhìn về tương lai, cả khi tuổi đời đã chồng chất”. “Xin tiếp tục phục vụ Giáo hội, xin tiếp tục góp phần làm Giáo hội phát triển  với lòng hăng hái và khôn ngoan”, Đức giáo hoàng Phanxicô cám ơn Đức Bênêđictô về sự tận tâm, trung tín của ngài và cả về sự hài hước “lành mạnh và tươi vui”, đem lại nhiều điều tốt lành cho ngài và cho toàn thể Giáo hội.

Nét sinh động và hạnh phúc hiện rõ trên gương mặt của Đức nguyên giáo hoàng; ngài đã vỗ tay, đứng dậy, đưa hai tay về phía Đức giáo hoàng Phanxicô: hai người ôm hôn nhau thắm thiết trong tình huynh đệ, giữa tiếng vỗ tay hoan hô của các vị hồng y.

Đức Bênêđictô XVI rất cảm động khi nghe Đức hồng y Angelo Sodano, niên trưởng Hồng y đoàn, kể lại những kỷ niệm về việc phong chức được gợi lại vào năm 2006 trong một chuyến viếng thăm Bayern. “Phủ phục dưới đất trong lời kinh cầu các thánh, tôi hiểu được rằng trên con đường này, chúng ta không đi một mình, mà có hàng ngũ các Thánh cùng đi với chúng ta, và cả các thánh còn sống, nghĩa là những người ngày nay và ngày mai nâng đỡ chúng ta và đồng hành với chúng ta. Kế đó là việc đặt tay và Đức hồng y Faulhaber nói với chúng tôi:  ‘Jam non dico servos, sed amicos’(Từ nay Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nhưng là bạn hữu), khi ấy chúng tôi đã cảm nghiệm được rằng thụ phonglinh mục là bắt đầu gia nhập cộng đoàn các bạn hữu của Chúa Giêsu, là những người được mời gọi ở với Người và loan báo sứ điệp của Người”.

“Eucharistomen”

Sau đó, Đức Bênêđictô XVI phát biểu, một phát biểu ngắn gọn, không soạn trước, nhưng súc tích và gãy gọn, tập trung vào từ Hy lạp “Eucharistomen”, Lễ tạ ơn.

Ngài cám ơn Đức giáo hoàng Phanxicô, người đã tỏ ra nhân hậu trong mọi lúc của cuộc đời ngài tại Vatican, sự nhân hậu khiến ngài ngạc nhiên và khắc ghi trong tâm khảm. “Hơn cả các khu vườn thật đẹp ở Vatican, lòng nhân hậu của Đức giáo hoàng Phanxicô là nơi tôi trú ngụ: tôi cảm thấy mình được chở che”. Đức Bênêđictô XVI cầu mong Đức giáo hoàng Phanxicô tiến bước  “với tất cả chúng ta”, trên con đường của lòng thương xót của Thiên Chúa, và chỉ cho mọi người chúng ta con đường dẫn tới Chúa Giêsu. Đức Bênêđictô XVI cũng cám ơn Đức hồng y Sodano về tình bạn “luôn hiện diện và cảm nhận được”, về những lời “đi thẳng tới con tim” của ngài”: “Đức hồng y đã nói lên nét chính yếu trong nhãn quan của tôi về chức linh mục”.

“Eucharistomen”. Trước khi tới chào từng vị hồng y có mặt, Đức Bênêđictô XVI nhắc lại chiều kích mới mà Chúa Kitô đã đem lại cho thực tại của việc tạ ơn. Người đã biến đổi Thập giá, khổ đau và sự dữ của thế giới này thành sự chúc lành. “Khi làm như vậy, Chúa Kitô đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống và thế giới, Người đã và đang ban cho chúng ta Bánh sự sống đích thực hằng ngày vượt lên trên thế gian bằng sức mạnh của tình yêu thương của Người”. Cuối cùng, Đức Bênêđictô cầu mong “chúng ta biết hòa nhập vào ‘lễ tạ ơn’ Chúa, để có thể đón nhận thực sự cái mới mẻ của cuộc sống và giúp biến đổi thế giới này: một thế giới không phải của sự chết mà là của sự sống; một thế giới trong đó tình yêu toàn thắng cái chết”.

Chuyện loài hoa

Với người Công giáo, Tháng Năm được mệnh danh là Tháng Hoa. Truyền thống Công giáo dành Tháng Năm mừng kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, và chúng ta có truyền thống Dâng Hoa – cả hoa thật và hoa lòng.

Gọi là Tháng Hoa cũng hợp lý, vì tháng này hoa nở nhiều sau khi có những giọt mưa đầu mùa, dù đang là mùa Hạ oi ả, nóng bức.

Hoa còn gọi là bông, đôi khi gọi ghép là “bông hoa”. Hoa là bộ phận chứa cơ quan sinh sản đặc trưng của thực-vật-có-hoa. Về mặt cấu trúc thực vật học, hoa là một dạng đặc biệt, có thể tạo sự thụ phấn chéo (kết hợp của phấn hoa và nhụy từ các cây hoa khác) hoặc cho phép tự lai ghép (kết hợp của phấn hoa và nhụy từ cùng một hoa). Hoa tạo ra quả (trái) và hạt.

Cấu tạo đầy đủ của hoa gồm: cuống hoa, lá bắc, đài hoa (lá đài), tràng hoa (cánh hoa), bộ nhị (vòng kế tiếp) và bộ nhụy (vòng trong cùng). Ngoài chức năng chứa cơ quan sinh sản của thực-vật-có-hoa, hoa còn được trồng và khai thác nhằm mục đích trang trí, làm đẹp, thậm chí còn dùng làm nguồn cung cấp thực phẩm và dược liệu.

CÁC LOÀI HOA

Hoa có nhiều loại, đa dạng và đa sắc, có loài tỏa hương thơm, có loài không hương thơm. Muôn hoa, muôn vẻ. Có lẽ “buồn” nhất là kiếp “hoa dại”, thế nhưng hoa dại là là… hoa khôn. Một năm có bốn mùa. Bốn mùa cũng có bốn loại hoa đặc trưng: Mai, Lan, Cúc, Trúc. Tuy nhiên, có lẽ Huệ là loài hoa đẹp nhất chăng? Vì chính Chúa Giêsu đã dùng loài hoa này để so sánh: “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6:28-29; Lc 12:27). Ngài muốn chúng ta tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Ai cũng thích hoa. Người ta trưng hoa và tặng hoa cho nhau vào những dịp đặc biệt, dùng hoa để ngụ ý điều mình muốn nói. Hoa là biểu tượng của nhiều thứ, cốt yếu là niềm vui và nỗi buồn.

Trong thi phẩm “Màu Tím Hoa Sim”, đã được vài nhạc sĩ phổ nhạc, thi sĩ Hữu Loan khóc thương người vợ trẻ:

Chiều hoang tím có chiều hoang biết

Chiều hoang tím tím thêm màu da diết

Nhìn áo rách vai

Tôi hát trong màu hoa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm

Tím tình ơi lệ ứa…

Cây sim là loại cây mọc ở nhiều khu rừng, hoa tím, lá vừa xanh vừa tím, trái nhỏ và cũng có màu tím, ăn được. Cây thấp, thân cứng nhưng nhỏ, thường chỉ cao khoảng 1m. Loại cây hoang dã nhưng có gì đó rất lạ. Màu tím tượng trưng cho nỗi buồn, mà nỗi buồn luôn thâm trầm, kỳ ảo lắm.

Trong thi phẩm “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím”, cũng đã được vài nhạc sĩ phổ nhạc, thi sĩ Kiên Giang:

Hoa trắng thôi cài trên áo tím

Mà cài trên nắp áo quan tài

Điểm tô công trận bằng hoa trắng

Hoa tuổi học trò, mờ thắm tươi

Xe tang đã khuất nẻo đời

Chuông nhà thờ khóc đưa người ngàn thu!

Hoa tím buồn đã đành, hoa đỏ cũng buồn không kém. Trong thi phẩm “Hai Sắc Hoa Ti-gôn” (đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 179, 30-10-1937), cũng đã được phổ nhạc, thi sĩ T.T.KH. thổ lộ nỗi lòng:

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết

Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa

Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ

Và đỏ như màu máu thắm pha!

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng

Trời ơi! Người ấy có buồn không?

Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ

Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

Cây Ti-gôn thân mềm, thường được trồng leo bờ rào, hoa màu hồng đỏ, có hình trái tim vỡ. Ẩn chứa điều gì?

Hoa nào cũng buồn, buồn quá! Nhưng chính nỗi buồn mới làm người ta “nhớ đời”, chứ niềm vui không được người ta nhớ lâu. Tất cả như một định mệnh rồi. Nhưng có một loài hoa còn buồn hơn, đó là “Cánh Hoa Thời Loạn”. Ns Y Vân cho biết:“Như cánh hoa trong thời loạn ly, ai đem giông tố bao trùm thế hệ? Anh, nếu thương cho một đời hoa, thì xin giữ yên quê nhà”. Trong chiến tranh, không chỉ hoa buồn, mà mọi người và mọi thứ đều buồn. Buồn vì nhiều nỗi, nhất là nỗi sợ. Sợ gì? Sợ chết! Dù lo sợ, nhưng “cánh hoa thời loạn” vẫn đầy mơ ước: “…Những cánh hoa hồng bên hàng dây kẽm hầm chông, vẫn mong bàn tay người đem tưới vui trong vườn”.

Chắc hẳn ở đây tác giả không nói về những cánh hoa bình thường, mà là những cô gái – những đóa hoa sống động giữa đời thường. Thật vậy, họ mơ ước: “Như cánh hoa trong thời biển dâu, xin anh săn sóc cho đời thắm màu. Ôi, nước non chia lìa vì đâu? Nòng súng anh xây nhịp cầu”. Hòa bình và tự do rất cần. Có hòa bình mới khả dĩ có tự do. Có hòa bình mà không có tự do thì cũng vô ích, người ta không thể vui sống mà tận hưởng hạnh phúc!

Có lẽ trong các loài hoa, Hoa Mắc Cỡ là bình dị nhất. Cây Hoa Mắc Cỡ mọc hoang khắp nơi, tại các khu đất sỏi đá ẩm ướt, đất đỏ pha cát, kể cả vùng đất cằn cỗi. Thân thảo, nhiều chùm rễ thành cành, có nhiều lông tơ nhỏ, nhiều gai nhỏ vàng mỡ gà, đầy gai nhọn, đâm vào da thịt gây nhức và đôi khi lưu mũi gai dưới da. Nhưng Hoa Mắc Cỡ không “ác ý”, không “dữ tợn”, ai chạm khẽ vào là Hoa Mắc Cỡ liền e thẹn xếp lá lại tỏ vẻ mắc cỡ như một trinh nữ.

Cây hoa dại này (thân, rễ, lá) có dược tính an thần cao, dễ tạo cơn buồn ngủ. Chỉ là một loài hoa dại nhưng Hoa Mắc Cỡ được cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh gọi tên bằng một mỹ từ: Hoa Trinh Nữ. Ông kể chuyện bằng nhạc: “Qua một rừng hoang gió núi theo sang giũ bụi đường trên vai, hái cây hoa dại lẻ loi bên đường gọi hoa Trinh Nữ… Nâng nhẹ một cây lá xếp trong tay lá ngủ thật mê say, ngỡ đôi mi dày khép đêm trăng đầy cài then cung ái…”. Ông mô tả thật khéo léo. Chắc hẳn Hoa Mắc Cỡ là loài hoa rất lạ, lạ như các trinh nữ vậy! Trinh nữ có một nhân đức là một trong ba lời khấn của các tu sĩ Công giáo: Khiết tịnh.

Tháng Hoa. Chúng ta được ngắm nhìn nhiều loại hoa nở rộ. Nhưng đó là những đóa hoa vô hồn. Chúng ta còn được dịp ngắm nhìn một đóa hoa đặc biệt nhất trong các đóa hoa sống động: Hoa Thánh – Đức Trinh Nữ Maria. Một đóa Trinh Nữ bình thường mà vĩ đại.

LỊCH SỬ

Ngược dòng lịch sử, chúng ta biết được rằng, vào các thế kỷ đầu, mỗi dịp Tháng Năm về, người Rôma có thói quen chào mừng sự thức giấc sau mùa Đông của thiên nhiên bằng việc tổ chức các ngày lễ suy tôn Hoa, vì hoa được coi là Nữ Thần Mùa Xuân. Thấy hay, người Công giáo tại các giáo xứ đã tổ chức các cuộc rước kiệu hoa và cầu mùa. Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi có hoa nở đưa về trang hoàng trong các nhà thờ, đặc biệt là bàn thờ Đức Mẹ. Người ta gọi đó là “cuộc rước xanh”.

Thế kỷ XIV, Lm Henri Suzo (dòng Đaminh) đã tổ chức các buổi đặc biệt tôn kính Đức Mẹ vào ngày đầu Tháng Năm, và trang hoàng hoa quanh tượng Đức Mẹ. Thánh Philipe Nêri thích tập họp trẻ em xung quanh bàn thờ Đức Mẹ vào ngày 1 tháng 5 để dâng các bông hoa mùa Xuân cho Đức Mẹ. Thói quen tốt lành này đã ăn sâu vào tâm hồn đơn sơ của các em, và vẫn được duy trì khi chúng lớn khôn.

Đầu thế kỷ XVII, tại Napoli (Ý), trong thánh đường Thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, Tháng Đức Mẹ được cử hành chung: Mỗi chiều đều có buổi hát kính Đức Mẹ và chầu Thánh Thể. Từ đó, Tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các giáo xứ. Năm 1654, Lm Nadasi (dòng Tên) cho xuất bản một tập sách nhỏ với đề nghị nên dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Mẹ Thiên Chúa.

Đầu thế kỷ XIX, các giáo xứ trong Giáo Hội đều long trọng tổ chức tháng kính Đức Mẹ. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và hầu như người ta dùng thời gian tôn kính Đức Mẹ vào ngay sau Mùa Chay. Trong Thông điệp “Đấng Trung Gian Thiên Chúa” (Mediator Dei, 20-11-1947), Thánh GH Piô XII nói: “Việc tôn kính Đức Mẹ trong Tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng Vụ, được Giáo Hội công nhận và cổ võ”.

Trong Thông điệp “Tháng Năm” (Mense Maio, 29-4-1965), số 1, Chân Phước GH Phaolô VI viết: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân kính dâng Đức Mẹ cách riêng. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng mến mà người Công giáo khắp thế giới dành cho Đức Mẹ, Nữ Vương Thiên Đàng”. Thật vậy, vì Đức Mẹ là Đấng trung chuyển các ân sủng của Thiên Chúa.

Trong sách Tháng Đức Bà (NXB Hiện Tại, 1969, trang 10), có ghi lại câu chuyện này:

Ở thành phố Nanxêniô (Pháp), có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan. Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình, nhưng chồng vẫn cứng lòng.

Năm ấy, đầu Tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con bà làm việc kính Đức Mẹ. Người chồng bận việc làm ăn xa, ít khi ở nhà, mà dù ông ở nhà thì ông cũng không bao giờ cầu nguyện chung với vợ con. Ngày lễ nghỉ, không bận việc làm thì ông cũng đi chơi cả ngày, nhưng có điều là khi về nhà, bao giờ ông cũng kiếm mấy bông hoa để dâng Đức Mẹ.

Ngày 15-6 năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp lãnh nhận các phép. Bà vợ thấy chồng chết như vậy thì buồn lắm, rồi sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở xa. Khi đi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ – tức là Thánh LM Gioan Vianney ngày nay. Ngài là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người xem là vị thánh sống. Bà vừa tới nơi, chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:

– Đừng lo cho linh hồn chồng bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong Tháng Hoa vừa rồi chứ?

Nghe cha nói vậy, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy. Nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được? Rồi cha sở nói thêm:

– Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục. Xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm để cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên Đàng.

Nghe xong, bà hết sức vui mừng và hết lòng tạ ơn Đức Mẹ.

Quả thật, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và luôn nhân từ. Mẹ Thiên Chúa cũng rất nhân hậu. Thánh GM Anphong Ligôri xác quyết: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, chắc chắn tôi được lên Thiên Đàng”. Còn Thánh Bênađô nói: “Được Đức Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không bị ngã. Được Đức Mẹ che chở, bạn sẽ không lo sợ. Được Đức Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ được an lòng. Được Đức Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt tới đích mà bạn mong chờ”. Thật là hạnh phúc nếu chúng ta luôn biết bám vào Đức Mẹ. Có Mẹ là có tất cả!

Như bạn đã biết, Đức Mẹ là thụ tạo đặc biệt của Thiên Chúa. Vì thế, các tôn giáo khác cũng luôn đề cao Đức Mẹ.

Tháng 12-2003, Đức Mẹ xuất hiện trên bìa 3 tạp chí lớn của Tin lành với hơn 500.000 bản. Các bài viết ở cả 3 tạp chí kia đều đồng ý rằng các tín đồ Tin lành đã không chú ý Đức Mẹ quá lâu, và đó là đỉnh điểm để các tín đồ Tin lành tái nhận biết vị trí của Đức Mẹ trong đạo Tin lành. Thật vậy, càng ngày càng có nhiều người ngoài Công giáo bắt đầu phát hiện vị trí của Đức Mẹ trong tôn giáo của mình.

Nhiều sách về Đức Mẹ đã được các học giả Tin lành viết, nhiều cuốn cổ vũ người Tin lành nhìn sát hơn vào Đức Mẹ. Nhiều câu chuyện về các Phật tử và những người ngoài Công giáo đã đến viếng Đền Đức Mẹ Lộ Đức. Mặt khác, các tín đồ Hồi giáo cũng rất tôn trọng Đức Mẹ. Thật vậy, Đức Mẹ được nói đến nhiều lần trong kinh Koran, sách thánh của Hồi giáo, nhiều hơn cả trong Kinh thánh!

Đức Mẹ là chủ đề trong nhiều cuộc thảo luận đại kết – những cuộc thảo luận giữa các thần học gia Công giáo, các học giả Tin lành, Hồi giáo, và các tôn giáo khác với mục đích tìm ra những “điểm chung” giữa các tôn giáo. Tháng 6-2001, sau khi trở về từ hội nghị liên tôn được tổ chức tại Lộ Đức, ĐHY Francis Arinze, lúc đó là chủ tịch Hội đồng Đối thoại Liên tôn, nói rằng Đức Mẹ là khởi điểm để giới thiệu sứ điệp Kitô giáo cho các tín đồ của các tôn giáo khác. Các tham dự viên hội nghị này là các đại biểu Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, Tin Lành Lutheran và các thần học gia. ĐHY Arinze giải thích: “Chúng ta phải tạ ơn Chúa về ý nghĩa tích cực về Mẹ Maria đối với các tôn giáo khác”.

ĐỨC MẸ VÀ HỒI GIÁO

Nhiều người Công giáo không biết rằng Đức Mẹ rất được các tín đồ Hồi giáo yêu mến và tôn kính. Đức Mẹ là phụ nữ duy nhất được nhắc tên 34 lần trong kinh Koran – hơn cả số lần trong Kinh Thánh. Có cả một chương “Mẹ Maria”, và được các tín đồ Hồi giáo diễn tả là chương hay nhất trong toàn bộ kinh Koran. Chương III trong kinh Koran là chương Imran, theo tên của Thân phụ Đức Mẹ.

Kinh Koran nói về việc Đức Mẹ dâng mình trong Đền thờ Giêrusalem, lễ tẩy trần, cuộc truyền tin, sự trinh thai và việc sinh Chúa Giêsu. Đức Mẹ được Hồi giáo nhận biết và tôn kính là người được thánh hóa và cao trọng nhất trong các phụ nữ, và là sự hoàn hảo tâm linh: “Các thiên thần nói: Lạy Mẹ Maria! Thiên Chúa đã chọn Mẹ và thanh tẩy Mẹ – chọn Mẹ hơn hẳn các phụ nữ ở mọi quốc gia. Lạy mẹ Maria! Xin thờ lạy Thiên Chúa: Xin phủ phục, và quỳ gối (khi cầu nguyện) với những người cùng quỳ gối” (Koran 3:42-43).

Thật vậy, điều ngạc nhiên đối với nhiều người Công giáo là Hồi giáo chấp nhận “sự đồng trinh trọn đời” của Đức Mẹ, gián tiếp có nghĩa là Vô nhiễm Nguyên tội – hai tín điều chính về Đức Mẹ. Trong kinh Koran, Đức Mẹ được nhận biết là thụ tạo duy nhất không mắc Tội Tổ Tông từ trước khi làm người, được giữ khỏi mọi tội suốt cả đời. Chúng ta đọc lời cầu nguyện của Đức Mẹ trong kinh Koran: “Lạy Chúa, con dấn thân phục vụ Ngài từ trong lòng con. Xin Ngài thương nhận. Chỉ mình Ngài lắng nghe và thấu suốt mọi sự”. Và khi Đức Mẹ sinh Chúa Con, Đức Mẹ nói: “Lạy Chúa, con được gọi là mẹ của Người. Xin bảo vệ con và con cháu khỏi Satan… và xin Con Chúa chấp nhận con” (Koran 3:35-37).

Ở phần khác, kinh Koran nói: “Thiên thần nói: Hỡi Cô Maria, Allah đã chọn Cô và thanh tẩy Cô. Ngài đã chọn Cô hơn hẳn các phụ nữ khác. Hỡi Cô Maria, hãy tận hiến cho Thiên Chúa” (Koran 3: 42-43). Kinh Koran nói về sự đồng trinh của Đức Mẹ: “Đối với các tín hữu, Thiên Chúa thiết lập một tấm gương… Maria… người đã giữ mình đồng trinh và nơi cung lòng ấy, chúng ta hít thở Chúa Thánh Thần; Đấng đã làm Mẹ tin Lời Chúa và Kinh Thánh, đồng thời rất đạo hạnh” (Koran 66:11-12).

ĐỨC MẸ VÀ TIN LÀNH

“Đức Kitô có là người duy nhất được tôn thờ? Hoặc Mẹ Thiên Chúa không được tôn kính? Đây là phụ nữ đã đạp đầu con rắn. Hãy nghe chúng tôi. Vì Chúa Con không từ chối điều gì”. Đó là câu nói của ông Martin Luther, nhà cải cách Tin Lành hồi thế kỷ XVI, thành lập phong trào Tin Lành và ly khai với Công giáo. Đó là câu nói trong bài giảng cuối cùng của Luther tại Wittenberg hồi tháng 1-1546, vài tháng trước khi ông qua đời. Điều đó cho thấy rằng ông Luther tôn sùng Đức Mẹ cả đời.

Càng ngày càng có nhiều học giả Tin Lành xuất bản các phát hiện của họ về lòng sùng kính Đức Mẹ của những người thành lập đạo Tin Lành – Martin Luther, John Calvin, và Ulrich Zwingli. Trong ba người này, Martin Luther là người sùng kính Đức Mẹ nhất và đức tin của họ vẫn phù hợp với giáo lý Công giáo – một tiếng kêu từ việc kết án gay gắt về những gì liên quan Đức Mẹ nơi nhiều người Tin Lành chính thống và các Kitô hữu Tái sinh ngày nay. Các tín đồ Tin Lành đã bị bỏ lại phía sau về việc dạy rằng bất kỳ điều gì liên quan Đức Mẹ đều ngược với Tin Lành, và bất cứ điều gì liên quan Đức Mẹ đều làm giảm việc tôn thờ Đức Kitô. Nhưng có bằng chứng đủ để nói rằng các nhà cải cách Tin Lành không bao giờ có ý “chống Đức Mẹ”.

Nhiều học giả Tin Lành đồng ý rằng Martin Luther sùng kính Đức Mẹ cả đời, cũng như niềm tin của ông trong các giáo huấn chính yếu về Đức Mẹ. Thật vậy, Martin Luther tin mọi giáo lý về Đức Mẹ – Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, lên trời, và ngay cả việc Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Chính Luther đã viết và tin Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội – 300 năm trước khi Giáo hội Công giáo chính thức tuyên bố tín điều này vào năm 1854. Đây là cách hiểu của Luther về Vô Nhiễm Nguyên Tội: “Nhưng quan niệm khác, nghĩa là sự truyền thụ của linh hồn, đó là điều được tin thích hợp và đạo đức, là không có tội, để khi linh hồn được truyền thụ, Đức Mẹ cũng được tẩy sạch khỏi tội nguyên tổ và được trang điểm bằng những Ơn Chúa để nhận linh hồn thánh thiện đã được truyền thụ. Như vậy, trong chính lúc bắt đầu sống thì Đức Mẹ đã không nhiễm tội…”.

Trong cuốn “Against the Roman Papacy: An Institution of the Devil” (Chống Lại Giáo Hoàng Rôma: Tổ Chức của Ma Quỷ), xuất bản năm 1545 (một năm trước khi qua đời), Luther đã nói: “… Đức Maria đồng trinh, không nhiễm tội và không thể phạm tội mãi mãi”. Như vậy, ngay lúc bị coi là chống lại giáo hoàng, Luther vẫn không bào giờ lung lay niềm tin về vấn đề Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ.

Một số học giả nổi bật của Tin Lành cũng đồng ý rằng cả đời ông Luther vẫn tin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong số các học giả đó là Arthur Carl Piepkorn, Eric Gritsch, Jaroslav Pelikan, kể cả 11 học giả theo Tin Lành Lutheran thuộc Ủy ban Đối thoại Tin Lành Lutheran và Công giáo (Lutheran-Catholic Dialogue Committee).

Về vấn đề Đức Mẹ lên trời cũng tương tự, tín điều được công bố trong thế kỷ XX, nhưng từ thế kỷ XVI, Luther đã tin là “tư tưởng đạo hạnh và vui lòng”. Về thiên chức Mẹ Thiên Chúa, Luther viết: “Đức Mẹ được mời gọi không chỉ là Mẹ của nhân loại, mà còn là Mẹ của Thiên Chúa… Chắc chắn Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa thật”.

Về niềm tin cả đời ông Luther đối với sự đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ, ông viết:“Vấn đề đức tin là Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và vẫn đồng trinh”. Khác với Martin Luther, John Calvin không khen Đức Mẹ như Martin Luther, dù ông không phủ nhận tầm quan trọng và sự nổi trội của Đức Mẹ trong lĩnh vực đức tin. Cũng như Martin Luther, John Calvin tin Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và trọn đời đồng trinh: “Bà Êlidabét gọi Maria là mẹ Thiên Chúa, vì sự duy nhất của con người có hai bản tính của Đức Kitô, Đức Mẹ có thể nói rằng con người hay chết được tạo nên trong cung lòng Đức Mẹ cũng là Thiên Chúa vĩnh hằng”.

Ông Calvin nói về Đức Mẹ: “Không thể phủ nhận việc Thiên Chúa đã chọn và tiền định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa Ngôi Con, và được ban cho sự kính trọng cao nhất. Tới ngày nay, chúng ta không thể hưởng phúc lành nơi Đức Kitô nếu không nghĩ đồng thời Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sự cao trọng, theo ý của Đức Mẹ chấp nhận là Mẹ của Con Một Thiên Chúa”.

Tài liệu của Ulrich Zwingli ghi lại lời của ông Calvin: “Tôi đánh giá cao Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh và vô nhiễm nguyên tội. Thật thích hợp khi Chúa Con nên có một Người Mẹ Thánh. Loài người càng tôn thờ và yêu mến Chúa Kitô thì càng nên tôn kính và yêu mến Đức Mẹ”.

Như vậy, sùng kính Đức Mẹ là phần cơ bản của Tin Lành. Các Giáo hội Tin Lành Lutheran vẫn giữ ảnh tượng Đức Mẹ, nhưng hạn chế sùng kính Đức Mẹ (như kinh Ave Maria và Magnificat), dù ông Luther qua đời cả 100 năm sau. Giáo hội Lutheran dạy đề cao Đức Mẹ đồng trinh là mẫu gương nhân đức của các Kitô hữu.

Việc sắp xếp các “yếu tố ẩn giấu” này về lòng sùng kính Đức Mẹ và tinh thần của những người sáng lập Tin Lành có thể là lý do để mới đây có nhiều sách của Tin Lành kêu gọi tái khám phá Đức Mẹ. Một học giả Tin Lành còn “đi xa” hơn và nói rằng: “Đã đến lúc người Tin Lành trở về nhà”.

ĐỨC MẸ VÀ CÁC QUỐC GIA

Có thể ngày đó không bao giờ đến khi nhiều tôn giáo sẽ phá bỏ các rào chắn giáo lý kết hợp. Các bất đồng cơ bản về các giáo huấn chủ yếu sẽ có thể không bao giờ được vượt qua. Chẳng hạn, người Công giáo sẽ không bao giờ thỏa hiệp việc tin có Thiên tính của Chúa Giêsu Kitô, còn Hồi giáo sẽ không bao giờ nâng cao thân phận của Chúa Giêsu khỏi vị trí chỉ là một “tiên tri vĩ đại” của Thiên Chúa.

Nhưng có thể có một mẫu số chung giữa các tôn giáo để có thể là nền tảng của cuộc đối thoại lâu dài vào một ngày nào đó, để tạo sự kết hợp giữa các tôn giáo mà chúng ta thấy ngày nay. Đức Mẹ là “Đức Mẹ của mọi quốc gia” (Lady of All Nations).

Hồi giáo duy trì việc đánh giá cao và tuyên bố Đức Mẹ là người cao trọng nhất. Tin Lành bắt đầu nhận biết vị trí của Đức Mẹ trong tôn giáo của họ. Thậm chí có người của các tôn giáo không độc thần như Phật giáo cũng đang coi Đức Mẹ là chứng cớ đã được các Phật tử tường trình tại Đền Đức Mẹ Lộ Đức. Tại các hội nghị đại kết liên tôn, Đức Mẹ càng ngày càng là khởi điểm của việc đối thoại. Đức Mẹ đã vượt qua mọi rào cản giáo lý, là ánh sáng soi vào nơi thâm sâu nhất và tối tăm nhất của bóng tối. Đức Mẹ là dấu hiệu của sự kết hợp, không bao giờ chia rẽ chúng ta.

Thật vậy, dù tôn giáo nào hoặc giáo phái nào, mọi người đều thấy dễ chấp nhận là Người Mẹ tốt nhất trong lịch sử (Best Mother in all history) – đạo hạnh nhất, kính sợ Chúa nhất, mạnh mẽ nhất, và sùng kính nhất. Điều này chính xác vì “cương vị làm mẹ” của Đức Maria mà Mẹ có thể được gọi là “Mẹ của các dân tộc”, Người Mẹ đã được Đức Kitô trao ban cho nhân loại, khi Ngài bị treo trên Thập giá: “Đây là mẹ của con” (Ga 19:27).

Có lần ông Luther nói: “Việc tôn kính Đức Maria được khắc ghi sâu đậm trong trái tim con người”. Ý nghĩa của các từ ngữ mà ông Luther đã dùng rõ ràng: Trong sâu thẳm của mọi tâm hồn, dù tôn giáo nào hoặc dù dân tộc nào, đều được ghi khắc sự khao khát tự nhiên và tình yêu tự nhiên đối với Người Mẹ của các quốc gia, một ngày nào đó, nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, sẽ quy tụ mọi con cái dưới bóng Mẹ.

Ngày xưa, Vãn Hoa mang tâm tình con thảo và khiêm nhường:

Chúng con mọn mạy phàm hèn

Dám đâu ghé mắt trông lên bàn thờ

Ngửa xin tràn xuống ơn thừa

Rộng ban giãi tấm lòng thơ trước toà

Ước gì trong Tháng Hoa này, mỗi chúng ta cũng biết “Nhờ Mẹ Đến Với Chúa Giêsu – Ad Jesum Per Mariam”, biết dâng những đóa hoa lòng để tôn kính Đức Mẹ. Chắc chắn Đức Mẹ không bao giờ quên chúng ta đâu!

Tháng Năm lại về, với tâm tình con thảo, chúng ta cùng tận hiến cuộc đời mình cho Đức Mẹ: “Con hoàn toàn thuộc về Mẹ, mọi sự của con đều là của Mẹ. Con xin dâng Mẹ tất cả mọi sự của con. Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con trái tim của Mẹ – Totus tuus ego sum, et omnia mea tua sunt. Accipio te in mea omnia. Praebe mihi cor tuum, Maria”.

Phêrô – một cuộc đời được biến đổi

Từ xưa đến nay, những nhân vật được chọn để giữ một vai trò trọng yếu nơi một tổ chức thường là những người có những biệt tài nào đấy: thông minh, có tài quản trị, có khả năng ngoại giao tốt… Thế nhưng, nhìn đến những con người mà Chúa đã chọn để thay Chúa phân phát ơn lành từ trời cho thế giới, ta lại thấy một điều hoàn toàn ngược lại. Ngay từ thời điểm bắt đầu đời sống công khai, Đức Giêsu đã mời gọi một số người cùng đi với Ngài, ở lại với Ngài, để Ngài huấn luyện và sai đi. Trong số nhóm người thân tín nhất với Đức Giêsu, Phêrô được chọn làm người đứng đầu, nhờ việc ông được Chúa Cha mặc khải cho biết về căn tính Kitô của Đức Giêsu. Phêrô không phải là người xuất sắc nhất trong nhóm, cũng không phải là người thánh thiện nhất trong nhóm. Ông lại còn là người chối Chúa khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn. Đặt một ngư phủ vô học làm nền tảng cho Giáo Hội của mình, rõ ràng Đức Giêsu đã làm một chuyện thật ngược ngạo từ trước đến nay trong lịch sử nhân loại.

Lần đầu tiên Phêrô nghe nói về cái tên Giêsu là nhờ người anh em Anrê kể lại. Sau khi nghe Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, Anrê và Gioan đã đi theo Đức Giêsu và đã ở lại với Người ngày hôm ấy. Không biết chuyện gì đã xảy vào khoảng thời gian định mệnh này, nhưng sau khi trở về, Anrê đã quả quyết với Phêrô là ông đã được nhìn thấy Đấng Mêsia. Chắc hẳn là Phêrô cũng nóng lòng, mong chờ một dịp nào đấy thuận lợi để ông cũng có diễm phúc được gặp Đấng Thánh này.

Chẳng biết là cơ duyên hay tình cờ, điều ông mong chờ đã xảy đến vào một buổi sáng đẹp trời, khi ông vừa trở về sau một đêm đánh cá chẳng thành công. Cái nghề ngư phủ này lúc nào cũng phải tùy thuộc vào vận may như thế cả. Đã không được con cá nào, người mỏi mệt vì một đêm thức trắng, ông và gia đình lại còn phải cặm cụi vá lại chiếc lưới rách tả tơi. Nhưng có ai ngờ, vào cái ngày mà ông cho là ê chề thất bại, cuộc đời ông lại được mở sang trang nhờ một cuộc gặp gỡ không dự báo trước. Đang khi ông làm việc, Giêsu từ đâu bước tới, theo sau là lũ lượt những con người. Giêsu ngỏ lời mượn chiếc thuyền của ông làm bệ giảng, và xin ông chở Ngài ra xa một tí để có thể chia sẻ những bài học hay cho dân chúng đang đợi chờ lắng nghe.

Niềm hạnh phúc dâng cao, Phêrô chưa kịp hiểu được điều gì đang xảy ra. Giữa biết bao con thuyền đang đỗ bến, con thuyền của ông được chọn. Giữa biết bao ngư phủ đang ở đây, ông là người được ngỏ lời. Giờ đây, khi Đức Giêsu đang trao ban những lời vàng quý giá, ông là người ở gần Ngài nhất, nghe rõ những gì Ngài nói nhất. Hàng ngàn hàng vạn người đang đua nhau để tiếp cận Đức Giêsu, trong số đó, chắc là có nhiều người danh giá và giàu có hơn ông. Vậy mà một con người đức cao vọng trọng như Giêsu lại để ý đến thân phận nhỏ bé của ông. Trong thoáng chốc, ông quên đi hết tất cả cái mệt mỏi của mình, kể cả thất bại vừa trải qua. Ông đang hạnh phúc!

Cứ ngỡ là sau khi mượn chỗ để giảng thuyết, Giêsu sẽ cảm ơn ông, rồi nhờ ông đưa vô bờ trở lại. Sau đó, đường ai nấy đi, không còn gặp mặt nữa. Nhưng thật bất ngờ, Giêsu tiếp tục trò chuyện với ông, mời gọi ông hãy chèo thuyền ra xa hơn một tí nữa, để đánh cá. Phêrô chẳng muốn đi tí nào! Giêsu đã khơi lại trong ông nỗi buồn của đêm trước. Cái mệt mỏi và chán nản vừa được xua tan đi, bỗng dưng quay trở lại. Kinh nghiệm đánh cá lâu năm của ông mách bảo ông rằng lời mời gọi ấy của Giêsu mới thật ngớ ngẩn biết bao. Nhưng vì Thầy, vì để làm Thầy vui, ông cố gắng tận dụng chút sức lực còn lại thực hiện một cuộc mạo hiểm mới. Ông vốn dĩ đã thần phục Đức Giêsu vì tiếng lành đồn xa của Ngài, và vì vừa được nghe những bài giảng sâu sắc của Ngài. Nay, ông càng kinh khiếp hơn vì phép lạ mà ông vừa chứng kiến. Ông như được dẫn vào trong một thế giới siêu nhiên, nơi đó, ông thấy mình nhỏ bé quá chừng. Ông quỳ xuống, một cử chỉ thể hiện sự thấp kém của mình trước mặt Đấng Chí Tôn.

Ngày hôm ấy và khoảnh khắc đáng ghi nhớ ấy, chắc có lẽ sẽ đọng mãi trong tâm hồn ông, vì đó là lúc mà ông nghe rõ bằng chính đôi tai mình lời mời gọi của Thiên Chúa, muốn ông bỏ hết mọi sự mà bước theo Ngài. Có vẻ như chẳng phải ngẫu nhiên mà Giêsu đến nhờ ông, rồi giảng cho ông nghe, rồi mời ông đi thả lưới. Chính tại nơi bờ biển hồ thân quen hàng ngày với ông đã trở thành nơi kỷ niệm và làm chứng cho cuộc tình gắn bó keo sơn giữa ông và thầy Giêsu chí thánh của mình. Vài năm sau, khi cuộc tình ấy đã trải qua nhiều chông chênh thử thách, kể cả bội phản, ông sẽ nghe lại lời mời gọi này một lần nữa, cũng trên một bờ biển hồ này, vào lúc bình minh chan hòa khắp chốn.

Ánh bình minh là dấu chỉ báo hiệu cái qua đi của một đêm dài âm u lạnh lẽo, của thất bại và chán chường. Nó là khởi điểm cho một sự khởi đầu mới với những bất ngờ và niềm vui. Lời mời gọi của Giêsu dành cho ông đã đến vào những lúc bình minh và cũng có tác dụng hệt như một ánh bình minh vậy. Cuộc đời ông đã bắt đầu thay đổi khi nghe lời mời ấy lần đầu tiên. Và cứ mỗi lần ông nghe lại lời ấy, một hành trình mới lại được mở ra. Bước ngoặc cuối cùng là khi ông thấy Thầy mình vác thập giá quay trở lại thành Giêrusalem khi ông tìm cách bỏ trốn. Nên đồng hình đồng dạng với Chúa, đó là niềm mơ ước của ông. Ngày xưa, trên chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của ông, đầu ông đã một lần cúi xuống bái thờ Ngài. Giờ đây, trên thánh giá gỗ treo thân ở đây, một lần nữa ông lại xin phép cho đầu mình được hướng xuống đất. Một cuộc tái ngộ giữa ông và Thầy Giêsu lại tiếp tục diễn ra. Lần này, không phải nơi bờ hồ, hay trên chiếc thuyền đánh cá, nơi ông đã từng mê mẩn hứng lấy từng lời nói của Thầy, nhưng là trên Thiên Đàng, nơi ông có thể gắn kết với Thầy trọn vẹn, nơi đánh dấu cho sự nguyên tuyền và hoàn hảo của tình yêu mà ông và Thầy đã cố gắng dựng xây.

Giêsu đã xuất hiện trong cuộc đời của Phêrô ngay trong những thất bại và ê chề ông đang nếm trải. Chính điều đó càng làm cho ông càng thấy bất ngờ và hạnh phúc hơn. Gắn kết cuộc đời mình với Giêsu, từ chỗ người ngư phủ lưới cá, Phêrô đã trở thành vị tông đồ lưới người. Cùng với Chúa, ông không ngừng chèo chiếc thuyền Giáo Hội ra chỗ nước sâu, thu về cho Chúa biết bao linh hồn đang sa cơ lạc lối. Có ai ngờ một con người tầm thường như Phêrô, sau khi đến với Giêsu, đã được trở nên một con người phi thường như thế? Với Phêrô, Giêsu là khởi nguồn mang đến “bình minh” cho những ai luôn đặt Ngài làm điểm tựa của cuộc đời.

Kính Thánh Phêrô và Phaolô

Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.

 

BÀI ĐỌC I: Cv 12, 1-11

“Bây giờ tôi biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay Hêrôđê”.

 

Trích sách Tông đồ Công vụ.

 

Trong những ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không Men. Bắt được người, vua cho tống ngục, giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người. Đến khi vua Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy, Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: “Hãy chỗi dậy mau”. Xiềng xích liền rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng: “Hãy thắt lưng và mang giày vào”. Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng: “Hãy khoác áo vào mà theo ta”.

 

Người liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, người tưởng như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ, rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn hồn và nói rằng: “Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:
Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Đáp: Chúa đã cứu tôi khỏi điều lo sợ (c. 5b).

 

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. – Đáp.

 

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. – Đáp.

 

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. – Đáp.

 

4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. – Đáp.

BÀI ĐỌC II:
2 Tm 4, 6-8. 17-18

“Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”.

 

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

 

Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi miệng sư tử. Nguyện cho Người được vinh quang muôn đời. Amen. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:
Mt 16, 18

Alleluia, alleluia! – Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. – Alleluia.

PHÚC ÂM:
Mt 16, 13-19

“Con là Đá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời”.

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

 

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

 

Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”.

 

Đó là lời Chúa.

Đức Thánh Cha đề cao sứ mạng chung với Chính Thống

Trong buổi tiếp kiến sáng 28-6-2016 dành cho phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, ĐTC Phanxicô đề cao sứ mạng chung của tất cả các tín hữu Kitô là loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa.

Phái đoàn do Đức TGM Metodio, Đồng Chủ tịch Ủy ban đối thoại giữa Chính Thống và Công Giáo tại Hoa Kỳ, hướng dẫn, về Roma dự lễ thánh Phêrô Phaolô bổn mạng của Giáo Hội Roma. ĐTC nhận xét rằng ”cả hai Thánh Tông đồ đều đã từng cảm nghiệm quyền năng lòng thương xót của Thiên Chúa: một vị đã chối Thầy và một vị đã bách hại Giáo Hội sơ khai. ”Noi gương hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và các Tông Đồ khác, Giáo Hội gồm những người tội lỗi được cứu độ nhờ phép rửa, đã tiếp tục loan báo lòng thương xót của Chúa qua dòng lịch sử.

ĐTC nói: ”Vì thế, khi mừng lễ các thánh Tông Đồ, chúng ta hãy tái cảm nghiệm sự tha thứ và ơn thánh liên kết tất cả các tín hữu của Chúa Kitô với nhau.. Nhìn nhận kinh nghiệm về lòng thương xót của Chúa là mối giây liên kết chúng ta bao hàm điều này là chúng ta phải luôn luôn làm cho tiêu chuẩn từ bi thương xót ngày càng trở thành tiêu chuẩn những quan hệ của chúng ta với nhau. Nếu chúng ta, trong tư cách là Công Giáo và Chính Thống, muốn cùng nhau loan báo những kỳ công của lòng thương xót Chúa cho toàn thế giới, chúng ta không thể duy trì những tâm tình và thái độ cạnh tranh, nghi kỵ và oán hận giữa chúng ta với nhau. Chính lòng thương xót giải thoát chúng ta khỏi gánh nặng của một quá khứ bị ghi đậm những cuộc xung đột và giúp chúng ta cởi mở đối với một tương lai mà Chúa Thánh Linh dẫn chúng ta tới”.

ĐTC cũng nhắc đến khóa họp vào tháng 9 tới đây của Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Công Giáo và Chính Thống. Ngài nói: Nhiệm vụ của Ủy ban này rất quí giá, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho công việc của Ủy ban được tiếp tục một với nhiều thành quả.

Sau cùng, ngài cầu mong cho Công đồng liên Chính Thống giáo mới kết thúc tại đảo Creta được Chúa Thánh Linh cho nảy sinh từ đó những hoa trái dồi dào cho thiện ích của Giáo Hội. (SD 28-6-2016)