Home Blog Page 497

Chúng ta phải xin tha thứ

 

Trên chuyến bay từ Armenia về Roma, hôm chúa nhật, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã có buổi phỏng vấn trên máy bay như lệ thường với các ký giả.

Ngài nói lên suy nghĩ về nhiều vấn đề, từ chuyến đi Armenia, đến các chuyến tông du sắp tới ở Azerbaijan và Ba Lan, đến vai trò của Đức Giáo hoàng Danh dự, sự hiệp nhất Kitô, phong trào kháng cách, Brexit, ý tưởng về nữ phó tế, và việc Giáo hội phải xin lỗi vì những kỳ thị với người đồng tính.

Cindy Wooden, (Catholic News Serivce): Thưa Đức Thánh Cha, vài ngày trước, hồng y Marx, đã nói trong một hội nghị lớn ở Dublin rằng, Giáo hội Công giáo phải xin cộng đồng người đồng tính tha thứ vì đã loại họ ra ngoài rìa. Trong những ngày sau vụ xả súng ở Orlando, nhiều người đã nói rằng cộng đồng Kitô giáo có phần nào trách nhiệm về sự thù ghét người đồng tính. Cha nghĩ thế nào?

Cha sẽ lặp lại những lời cha đã nói trong chuyến tông du đầu tiên. Cha lặp lại những gì mà Giáo lý của Giáo hội Công giáo nói: rằng không được kỳ thị họ, phải tôn trọng và đồng hành với họ trong mục vụ. Có thể lên án, nhưng không phải vì các lý do thần học, mà là các lý do hành vi lễ độ … Có những hành vi khá là xúc phạm người khác, phải không nào? …

Nhưng, những chuyện này chẳng liên quan gì đến vấn đề. Vấn đề là một con người có một hoàn cảnh một tình trạng, nếu người đó có thiện ý và tìm kiếm Thiên Chúa, thì chúng ta là ai mà phán xét? Chúng ta phải đồng hành với họ thật tốt …đây là những gì giáo lý dạy, một giáo lý rõ ràng. Rồi, có những truyền thống ở nhiều nước, nhiều văn hóa có tinh thần khác về vấn đề này.

Cha nghĩ rằng Giáo hội không chỉ phải xin tha thứ, không chỉ xin những người đồng tính bị xúc phạm tha thứ. Mà còn phải xin người nghèo, xin những phụ nữ bị lạm dụng, những trẻ em bị bóc lột lao động, tha thứ. Giáo hội phải xin tha thứ vì đã chúc lành cho quá nhiều vũ khí. Giáo hội phải xin tha thứ vì đã không hành xử đúng, khi cha nói Giáo hội là cha muốn nói đến các Kitô hữu. Giáo hội thánh thiện, chúng ta là người có tội. Các Kitô hữu phải xin tha thứ vì đã không đồng hành với quá nhiều chọn lựa, không đi cùng với quá nhiều gia đình …cha nhớ thời còn nhỏ, văn hóa ở Buenos Aires, một văn hóa Công giáo khép kín. Cha phải vượt qua. Một gia đình li hôn thì không được vào nhà người khác, cha đang nói về chuyện cách đây 80 năm. Văn hóa đã thay đổi, tạ ơn Chúa.

Kitô hữu phải xin tha thứ, vì nhiều chuyện chứ không chỉ những chuyện này. Xin tha thứ, chứ không chỉ là là xin lỗi. Lạy Chúa, xin tha thứ. Đây là một từ mà nhiều lần chúng ta quên mất. Bây giờ, cha là một mục tử, cha đang giảng đạo ư. Không, đây là sự thật. Nhiều lần …nhiều lúc các linh mục là ông chủ chứ không phải người cha, các linh mục đánh phạt chứ không ôm lấy, không tha thứ va an ủi. Nhưng có nhiều linh mục không như thế. Có nhiều linh mục tuyên úy bệnh viện, tuyên úy nhà tù, nhiều vị thánh. Nhưng những con người thánh thiện này chúng ta không thấy. Bởi sự thánh thiện thì khiêm nhu, ẩn mình. Nhưng cũng có sự vô liêm sỉ lớn lối, nó huênh hoang, và anh chị em cũng thấy có nhiều tổ chức, nhiều con người không tốt như họ tự nhận …họ quyên tặng một khoản khá lớn và lại nhìn anh chị em kiểu ngó lơ, như các cường quốc đã ngó lơ ba cuộc diệt chủng vậy. Các Kitô hữu chúng ta, cả các giám mục linh mục, chúng ta có mắc phạm điều này. Nhưng chúng ta cũng có Mẹ Têrêsa thành Calcutta, và nhiều người khác như mẹ. Chúng ta có nhiều người đang phục vụ ở châu Phi, nhiều giáo dân tốt, nhiều cuộc hôn nhân thánh thiện.

Có lúa và có cỏ dại. Và như Chúa Giêsu nói rằng Nước Trời sẽ đến …chúng ta đừng thấy tai ác vì có tình trạng này. Chúng ta phải cầu nguyện để Chúa làm cho cỏ dại tiêu đi và lúa mọc thêm. Nhưng đây là đời sống của Giáo hội Chúng ta không thể tự đặt ra các giới hạn. Tất cả chúng ta chúng ta đều là thánh, bởi tất cả chúng ta đều có Thần Khí. Nhưng tất cả chúng ta đều là người có tội, cha là người trước hết.

Các lá cờ cộng sản bay trên các nhà thờ Trung quốc thế chỗ cho các cây thánh giá bị phá hủy

Sau khi hủy hàng trăm cây thánh giá ở bang Chiết Giang, bây giờ chính quyền áp đặt treo cờ Trung quốc trên các nhà thờ.

Lá cờ cộng sản bay trên 69 cơ sở kitô giáo, thêm một hình thức kiềm chế tín hữu kitô ở Trung quốc. Chính quyền không ngại làm bất kỳ chuyện gì, họ thật sự không có một giới hạn nào trong lãnh vực bạo lực và phi lý.

Các nhà làm việc nhân đạo thường nói Chúa Giêsu là người làm việc xã hội lớn nhất trong mọi thời kỳ, vậy thì các nhà thờ kitô giáo phải treo cờ cộng sản? Trên thực tế, mục đích là để kiểm soát người kitô giáo và chắc chắn là cũng để sỉ nhục họ thêm. Chính quyền cũng đặt người của họ ở mỗi nơi, đó là các thành viên của đảng quốc gia.

Nhân quyền không được tôn trọng, dù có các vụ can thiệp dè dặt của Phương Tây. Nhất là không được làm mếch lòng nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, nước này có tầm mức của một châu lục. Luật của kinh tế là luật bắt buộc…

Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch

ĐỨC MẸ FATIMA

ĐỨC MẸ FATIMA
(ĐỨC MẸ MÂN CÔI)

Đức Mẹ Fatima là một trong số nhiều tước hiệu mà giáo hội dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Tước hiệu này phát xuất từ việc Đức Mẹ hiện ra 6 lần với 3 em bé chăn cừu làng Fatima (Bồ Đào nha) là Lucia dos Santos , Francisco Marto và Jacinta Marto từ ngày 13.5 tới ngày 13.10.1917.
.
Tước hiệu Đức Bà Mân Côi cũng được dùng để chỉ Đức Trinh Vương Maria đã hiện ra này. Ba em bé kể rằng, bà đẹp đã đích thân xưng mình là “Đức Mẹ Mân Côi“.
.
Từ hai tước hiệu trên gộp lại thành: “Đức Mẹ Mân Côi Fatima”
.
Bối cảnh lịch sử

Năm 1917, Fatima là 1 giáo xứ nông thôn gồm khoảng 2.500 người cư ngụ rải rác trong khoảng 40 thôn xóm. Mọi người đều lao động trên các đồng ruộng. Các trẻ em cũng phải giúp đỡ cha mẹ những việc nhẹ như chăn dắt bò, dê, cừu vv…Phần lớn dân cư đều mù chữ, chỉ có khoảng 10% phụ nữ biết đọc, biết viết.

Các gia đình Dos Santos và Marto cư ngụ trong thôn Aljustrel. Gia đình Dos Santos có 1 bé gái là Lucia, sinh ngày 22.3.1907. Gia đình người em họ Marto có 1 con trai là Francisco Marto, sinh ngày 11.6.1908 và 1 con gái là Jacinta Marto, sinh 11.3.1910. Ba em bé này thường chăn dắt đàn cừu tại bãi cỏ ở triền đồi gọi là «Cova de iria», cách thôn chừng 2 km.

Trong năm 1915, Lúcia, Francisco và Jacinta đã gặp thiên thần hiện ra với chúng ở bãi này. Khi về nhà thuật lại với cha mẹ, chúng bị cha mẹ mắng, cho là đặt chuyện nói láo. Mùa xuân và mùa hè năm 1916, thiên thần lại hiện ra với các em và dạy các em cầu nguyện như sau :
.
« Lạy Chúa !
Con tin, con thờ lạy
Con trông cậy và con yêu mến Chúa.
Con xin Chúa tha thứ cho những ai không tin, không thờ lạy,không trông cậy,và không yêu mến Chúa. »
.
Đức Mẹ hiện ra lần đầu

Ngày 13.5.1917, vào lúc trưa, 1 bà mặc áo trắng toát hiện ra với 3 em bé chăn cừu, nói với các em là hãy lần chuỗi, đọc kinh Mân Côi hàng ngày để cầu nguyện cho thế giới chấm dứt chiến tranh, được hòa bình. Trước khi biến đi, Bà bảo 3 em hãy trở lại nơi đây đúng giờ trưa ngày 13 tháng sau.

Jacinta còn qúa nhỏ mới có hơn 6 tuổi nên quên giữ kín , về nhà thuật lại sự việc cho cha mẹ nghe. Tin này loan truyền nhanh khắp làng. Mọi người tỏ ra không tin. Vị linh mục chính xứ hỏi Lúcia, nhưng cũng không tin. Trong báo cáo gửi lên giám mục cai quản giáo phận Leiria, vị linh mục quản xứ viết : «cần phải xa lánh chuyện này».
.
Đức Mẹ hiện ra lần thứ hai
Ngày 13 tháng 6, đúng giờ trưa, 3 em lại tới nơi hẹn, theo sau có khoảng vài chục người tò mò đến xem sự thể ra sao. Mọi người lần chuỗi đọc kinh mân côi thì Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, và nhắc lại với Lúcia về tầm quan trọng của việc đọc kinh Mân Côi. Hãy câu nguyện dâng kính «trái tim vô nhiễm Maria», đồng thời Đức Mẹ cũng báo trước cái chết của 2 anh em Francisco và Jacinta : «Mẹ sẽ sớm đưa Francisco và Jacinta về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian nữa. Chúa Giêsu muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết ta và yêu mến ta». Đức Mẹ cũng yêu cầu Lucia đi học chữ để dễ loan báo lời Đức Mẹ cho các người khác.
.
Các người đi theo không nhìn và nghe thấy gì. Họ chỉ nhìn thấy cành cây nhỏ (mà Đức Mẹ đứng) trĩu xuống dưới 1 sức nặng, rồi đột nhiên bật lên (khi Đức Mẹ biến đi)
.
Đức Mẹ hiện ra lần thứ ba
Ngày thứ Sáu 13.7.1917, «bà mặc áo trắng» lại hiện ra với 3 em – có khoảng 4.000 người theo sau. Đức Mẹ vẫn nhắc Lucia việc đọc kinh Mân Côi mọi ngày, để chiến tranh chóng chấm dứt. Lần này Đức Mẹ tiết lộ cho 3 em “bí mật” gọi là “bí mật Fatima”. (Năm 1942, 2 bí mật đầu đã được công bố, còn bí mật thứ 3 thì mãi tới năm 2000, Giáo Hội mới công bố).
.
Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư

Ngày 10.8.1917, viên chánh tổng – 1 người chống đối hàng giáo sĩ – đòi 3 em Lucia, Francisco và Jacinta tới để tra hỏi, nhưng không có kết quả, nên ông rất bực bội.
.

Ngày 13.8, có khoảng 18.000 người tới nơi Đức Mẹ hiện ra chờ xem sự lạ. Ông ta nhốt 3 em vì làm rối loạn trật tự công cộng và tiếp tục tra hỏi, nhưng vẫn hoài công. Rốt cuộc cho đến ngày 15.8, ông ta phải thả 3 em ra.
.
Chúa nhật 19.8, khi 3 em dẫn đàn cừu tới thả ở bãi Cova de iria, Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, yêu cầu các em nói với mọi người cầu nguyện cho các người tội lỗi mau thống hối và hứa sẽ làm 1 phép lạ cho mọi người tin.
.
Đức Mẹ hiện ra lần thứ năm

Ngày 13.9, có khoảng 30.000 người tụ họp tại bãi Cova de iria, cầu nguyện cùng với 3 em. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em và cho biết tháng sau, sẽ có Chúa, Đức Mẹ núi Carmêlô, thánh Giuse và Chúa Hài đồng Giêsu sẽ cùng tới.
.

Đức Mẹ hiện ra lần thứ sáu
.
Ngày 13.10.1917, mưa như trút nước trên bãi cỏ Cova da Iria. Một đám đông khoảng 70.000 người – kể cả nhiều phóng viên chụp hình và các ký giả tụ tập tại đây lần chuỗi, đọc kinh cầu nguyện. Lúc giữa trưa, Đức Mẹ hiện ra với 3 em và yêu cầu cho xây 1 nguyện đường tại đây để vinh danh Đức Trinh Vương Maria. Đức Mẹ cũng loan báo thế chiến thứ nhất sẽ sớm chấm dứt và yêu cầu những kẻ có tội hãy mau sám hối.
.

Khi Đức Mẹ biến về trời thì mưa ngưng rơi, mặt trời xuất hiện trên bầu trời xanh biếc. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời và thấy mặt trời nhảy múa, tung ra các chùm tia sáng nhiều màu. Mặt trời từ trên cao lao xuống thấp gần trái đất, khiến đám đông sợ hãi la lên và qùy xuống cầu nguyện. Việc lạ xẩy ra trong khoảng 10 phút, sau đó mọi sự trở lại bình thường. Những người lúc trước quần áo dầm mưa ướt đẫm sau khi mặt trời sa xuống đều khô ráo cả. Hiện tượng này được hầu hết đám đông chứng kiến, và một số người ở cách đó mấy dặm cũng nhìn thấy.

(Trong thời gian này, các nhà khoa học trên thế giới không hề ghi nhận 1 hiện tượng khác thường nào của mặt trời).
.

Trong khi đó, riêng 3 em nhìn thấy Thánh Gia, rồi Đức Mẹ Sầu Bị, Chúa Hài Đồng Giêsu và sau chót là Đức Mẹ núi Carmêlô lần lượt xuất hiện như đã hứa trước với 3 em.
.

Số phận 3 em chăn cừu

Francisco và Jacinta qua đời sớm trong đợt dịch cúm Tây Ban Nha Francisco mất năm 1919, một năm sau Jacinta mất năm 1920. Cả 2 em đã được ĐGH. Gioan Phaolô II nâng lên hàng đáng tôn kính (venerable) ngày 13.5.1989 và được phong chân phước ngày 13.5.2000. Mộ của 2 em hiện nằm trong lòng Vương cung thánh đường Fatima.

.
Còn Lucia ngày 24.10.1925 vào tu viện dòng Dorothea ở Pontevedra (Galicia, ở Tây Ban Nha). Năm 1928 khấn lần đầu ở Tuy (Tây ban nha).
.
Năm 1925 và 1929, Lucia lại được Đức Mẹ hiện ra với mình. Tháng 10.1934, Lucia vĩnh khấn và lấy tên thánh Đức Mẹ Maria Sầu Bi.
.
Sau nhiều năm điều tra, Đức Giám Mục da Silva, giáo phận Leiria, trong thư mục vụ ngày 13.10.1930 đã công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra với 3 em nói trên ở Fatima và chính thức cho phép việc tôn sùng Đức Mẹ Fatima.
.
Lucia được lẽnh đã viết các hồi ký về sự kiện trên gồm 4 bản (versions) :
.
1 bản năm 1935, 1 năm 1937, 1 năm 1941 và 1 đầu năm 1942.
.
Năm 1946, nhân kỷ niệm 300 năm ngày dâng nước Bồ Đào Nha cho Đức Trinh Nữ Maria, sứ thần tòa thánh là Đức Hồng Y Masella đã đội (vương miện) triều thiên lên tượng Đức Mẹ Fatima, với sự tham dự chứng kiến của khoảng 600.000 tín hữu hành hương. Vương miện này do các phụ nữ Bồ Đào Nha cung hiến để cảm tạ Đức Mẹ đã gìn giữ Bồ Đào Nha trong cuộc thế chiến thứ nhất.
.
Từ năm 1948, Lúcia vào tu trong đan viện dòng kín Carmêlô ở Coimbra (Bồ Đào Nha), dưới tên nữ tu Lucia Trái Tim Vô nhiễm nguyên tội.
Lucia từ trần ngày 14.2.2005 ở tuổi 97.
.
Đúng như lời Đức Mẹ nói với Lucia là:
con còn phải ở lại và nói với mọi người là hãy:
.
“Hãy Ăn Năn Đền Tội”
“HãyTôn Sùng Mẫu Tâm Mẹ”
“Hãy Năng Lần Hạt Mân Côi” 
.
Rồi đây nước Nga sẽ được thoát ách cộng sản vô thần, và chính Chị và chúng ta đã được chứng kiến những điều này như lời Đức Mẹ hứa.
.
Thanh Sơn 13.10.2012
Kỷ niệm 95 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima tìm hiều và tóm lược.
.
CauNguyenVoiChuoiManCoi_04

Lần Hạt Mân Côi

 

Chuỗi Mân Côi

Chuỗi Mân Côi

Lễ Đức Mẹ Mân Côi: Cùng Mẹ xin vâng

Lm. Anmai, CSsR

Cv 1, 12-14; Gl 4, 4-7; Lc 1, 26-38

Trong số các lễ nhớ Đức Maria, ngoài lễ Đức Mẹ Lộ Đức và lễ Đức Bà Camêlô, còn có lễ Đức Mẹ Mân Côi, do Đức Giáo Hoàng Gregorio XIII thành lập năm 1573. Nhưng để biết nguồn gốc của lễ này trước hết phải tìm hiểu lịch sử Kinh Mân Côi ”Rosario”. Từ Rosario phát xuất từ chữ Latinh ”Rosarium” có nghĩa là vườn hồng, khóm hồng, tràng hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh Mân Côi.

Sở dĩ gọi là ”chuỗi hoa hồng” hay ”tràng hoa hồng” là vì nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi một hạt là một kinh Kính Mừng. Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng kính Mẹ Thiên Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân là tên của một loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”, là ”chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ”. Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là ngọc Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.

Lễ Đức Mẹ Mân Côi trước kia người ta ít lưu tâm đến, nhưng từ khi Đức Mẹ ban ơn lạ lùng cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante vào năm 1571, Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ biến lễ này một cách rộng rãi trong Hội Thánh toàn cầu. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã giải thích tầm quan trọng của lễ Mân Côi trong rất nhiều thông điệp Ngài ban bố. Đến nay, người Kitô hữu trên toàn thế giới đã mừng lễ này cách rất sốt sắng và tôn kính đặc biệt đối với lễ Mân Côi.

Mẹ Maria với hai tiếng xin vâng đã góp tay vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu và hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa.Thánh lễ Mân Côi cũng nối kết những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu : “Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh”.

Thư gửi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô gợi lại niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như chúng ta nghe : “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! ” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”. Thánh Phaolô khẳng định lại ơn cứu độ đến tự nơi Chúa Giêsu để rồi những ai tin vào Ngài thì không còn sống nô lệ cho tội lỗi nữa mà là được cứu thoát.

Đấng Cứu Độ trần gian mà Thánh Phaolô nhắc đó cũng đã được các ngôn sứ, người này người kia trong Cựu Ước nói đến. Đặc biệt, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo nhưng rồi mấy ai đón nhận. Không ai đón nhận bởi vì họ không tin Đấng Cứu Độ trần gian đến trần gian qua người phụ nữ nhỏ bé. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đó đến trong uy quyền, đến trong vinh quang và sẽ làm cho dân tộc của họ được vinh quang nhưng Chúa đến khác với suy nghĩ của họ.

Trong niềm tin sâu thẳm của lòng mình, Mẹ Maria đã đón nhận Đấng Cứu độ trần gian. Trang Tin Mừng quá quen thuộc chúng ta nghe thánh Luca thuật lại lời xin vâng đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian vào trong đời mình. Mẹ tin và hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thánh ý của Chúa.

Ngày hôm nay, lời xin vâng được mở ra, được bỏ ngõ với biết bao nhiêu biến cố bi thương trong đời của Mẹ. Phải nói rằng quá sức chịu đựng của một cô gái như Mẹ. Không còn gì nhục nhã cho bằng khi phải đón nhận, khi phải đồng hành, khi cùng với con chịu đau khổ trên hành trình thương khó và bi thương nhất là cái chết trên thập giá.

Nhưng, niềm tin ấy của không dừng trên đỉnh đồi Canvê mà còn tiếp tục sau khi chôn con yêu của mình. Sách Công Vụ Tông Đồ cũng vừa kệ lại niềm tin của Mẹ khi các tông đồ bấn loạn, người đi về nhà, kẻ chán nản vì Thầy của mình đã chết. Không chỉ đơn thuần là Thầy mà là người mà cả cuộc đời mình tín thác, mình trao phó, thậm chí bỏ cả vợ cả con, cả gia đình để theo mà nay đã chết nên chẳng còn gì để mất cả. Các môn đệ tán loạn nhưng may mắn Mẹ đã giữ vững niềm tin ấy để quy tụ các môn đệ cùng quay trợ lại nơi các ông trú ngụ để cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau giữ vững niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian.

Niềm tin đó chính Mẹ đã giữ, giữ từ ngày xin vâng lời sứ thần cho đến khi Chúa Giêsu ra đi.

Tràng chuỗi Mân Côi mà ngày nay đoàn con cùng suy niệm chính là cùng nhau suy niệm niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.

Mừng Mẹ Mân Côi là mừng niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.

Không phải mừng lễ Mẹ như là mừng một biến cố, ghi dấu một kỷ niêm nhưng lại một lần nữa ta cùng nhau chiêm ngưỡng niềm tin của Mẹ. Và, cũng không phải chỉ để chiêm ngưỡng nhưng là để cùng nhau sống niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như Mẹ đã sống.

Cách riêng, trong năm Đức Tin này, một lần nữa, cơ hội, dịp để chúng ta soi chiếu niềm tin của chúng ta vào Đấng Cứu Độ trần gian như thế nào ? Dĩ nhiên, niềm tin ấy cũng như cơn sóng xô của cuộc đời. Niềm tin ấy cũng có lúc mãnh liệt, cũng có lúc cảm thấy mệt nhoài với những đau khổ trong đời . Thế nhưng, nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui thì những đau khổ mà ta phải chịu đó cũng chẳng thấm vào đâu so với tất cả những nỗi đau của Mẹ Maria. Và, Mẹ Maria cũng đau chưa bằng chính Chúa Giêsu con của Mẹ phải chấp nhận đau khổ đến hiến mạng sống của mình để đem lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu, trong tất cả nỗi đau của mình, Ngài đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.

Ngày mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng đi với Mẹ Maria hành trình cuộc đời của Chúa Giêsu từ nhập thể, nhập thế và chết trên cây thánh giá. Nhìn như vậy, chiêm ngắm như vậy, suy niệm như vậy để cùng Mẹ dâng lên Chúa mọi đau thương thử thách của cuộc đời.

Dĩ nhiên với bản tính mỏng dòn non yếu và phận người tội lỗi, chúng ta khó có thể đi theo Chúa trên con đường thập giá. Nhưng, khi cùng đồng hành với Mẹ, có Mẹ trong cuộc đời, chúng ta sẽ cảm thấy thập giá đời của ta nó nhẹ nhàng và thanh thản hơn.

Hãy cùng với Mẹ Maria và thưa với Chúa hai tiếng xin vâng như Mẹ để tất cả mọi khổ đau của đời ta nên nhẹ nhàng. Hãy cùng xin vâng như Mẹ để niềm tin của chúng ta ngày mỗi ngày trao phó cuộc đời của chúng ta càng thêm mạnh đủ để chúng ta bắt chước như Mẹ mở toang cuộc đời của ta cho Chúa vào để Chúa hành động trong ta.

Lm. Anmai, C.Ss.R.

Hanh Huong 2010 (14)

Bàn Tay Từ Mẫu

Trần Mỹ Duyệt

“Mẹ là khiên thuẫn che chở đời con.

Và là ơn cứu độ của con trong giờ chết” (Thánh Anphongsô).

Dong duổi trên đường đời gió bụi, gánh của sầu thương nặng trĩu đôi vai. Giữa tháng ngày trôi trong cô liêu, lặng lẽ, băn khoăn và thổn thức, lạc lõng và vô vọng, người con thường luôn nghĩ tới mẹ và gọi mẹ. Mong tìm gặp bàn tay và trái tim yêu thương của mẹ mình để làm nơi nương tựa, ủi an.

Trong cuộc đời của một người, không có mẹ, mồ côi mẹ, hay bị mẹ bỏ, là điều bất hạnh lớn lao nhất. Người đó không bao giờ hiểu được những dịu ngọt và hạnh phúc mỗi khi gục đầu vào lòng mẹ, hay được mẹ đặt một nụ hôn trên trán mỗi buổi tối trước khi đi ngủ.

Sự quyến luyến nồng nàn của tình mẫu tử đã trở thành một tình cảm thiêng liêng, đến độ mặc dù sau này khi đã lớn tuổi và trưởng thành, người con vẫn không sao quên nổi. Bởi vì tình yêu thương của mẹ dành cho con thật vô bờ bến, và không bút nào có thể diễn tả một cách đầy đủ.

Tình mẹ thương con đã cho người con sự tin tưởng và niềm hy vọng rằng những gì mình muốn, đều có thể tìm được nơi trái tim yêu thương của mẹ mình. Kể cả những lúc nguy nan và đau khổ, câu nói trên miệng con vẫn là: “Mẹ ơi! Mẹ cứu con”.

Trong đời sống siêu nhiên, Maria là người mẹ uy quyền, cao sang, nhưng luôn yêu thương và săn sóc con cái mình.

Thánh Bênađô khi diễn tả quyền năng và tình thương của Mẹ, đã phấn khích mọi người hãy tin tưởng và phó thác mọi sự nơi Mẹ:

“Lậy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ. Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Mẹ xin bầu chữa cứu giúp, mà Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời”.

Sự xác tín trên, đã khiến Ngài mạnh mẽ quả quyết nếu có trường hợp nào xẩy ra là có người chạy đến cầu xin Mẹ, mà bị từ chối hãy cho Ngài biết để Ngài bảo mọi người đừng yêu mến và cậy trông Mẹ nữa.

Lo âu của cuộc sống, vất vả của kiếp người, thôi thúc của dục vọng , tất cả đã làm cho con người nhiều khi chơi vơi, đắm đuối, thất vọng, và chán chường giữa dòng đời.

Với nhiều gia đình, đời sống hôn nhân, vợ chồng, cha mẹ và con cái không còn là những ân huệ của Thiên Chúa, không còn là một dấu chứng của tình yêu, và mái ấm hạnh phúc, nhưng đã biến thành một chiến trường hằng ngày vẫn ẩm ỷ, hoặc bùng nổ những tranh chấp và hận thù đưa tới bất hạnh.

Trong những hoàn cảnh như thế, khi con chạy lại với Mẹ, Mẹ sẽ làm gì? Mẹ sẽ dậy cho con biết lắng nghe, tìm hiểu, và chấp nhận ý Chúa. Nhất là Mẹ sẽ dậy con biết nhẫn nại, khiêm tốn chờ đợi thời giờ của Thiên Chúa.

Khi đánh mất niềm tin, là lúc con người bắt đầu than trách Chúa, bắt đầu phủ nhận sự thật về cuộc đời, và về chính mình. Bắt đầu vẽ ra một Thiên Chúa theo ý mình, chứ không phải là Thiên Chúa thực như Ngài hiện hữu. Trường hợp của bà mẹ đau khổ sau đây, phản ảnh lối suy tư và cái nhìn của con về Thiên Chúa, trong những lúc con gặp đau thương và thử thách.

Câu chuyện của một thiếu phụ sẵn sàng chấp nhận đời sống góa bụa, đơn côi và lạnh lẽo. Bà đặt trót niềm tin vào Thiên Chúa, giữ luật Chúa và Giáo Hội cách đầy đủ. Bà sống đạo sốt sắng, siêng năng đọc kinh, tham dự thánh lễ và rước lễ hàng ngày. Ước vọng duy nhất của bà là xin cho được một cuộc sống bình thản, an vui và hạnh phúc bên đứa con gái của mình. Ngoài ra, bà chỉ xin sao cho được nhìn thấy đứa con của mình lớn lên, học hành, có công ăn việc làm, có gia thất, và có một cuộc sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình.

Giấc mơ của bà xem như không bao giờ thành sự thật. Chỉ ít lâu sau khi người con gái bà lập gia đình, cô cũng đã trở thành một góa phụ trẻ như bà. Rồi bản thân cô, cô cũng đã từ biệt cõi đời trong một tai nạn lưu thông, để lại cho bà đứa cháu gái mới lên một.

Một lần nữa, bà hướng về đứa cháu ngoại. Lại cũng chỉ là một giấc mơ rất nhỏ nhoi, rất thiết thực, và rất người của bà đối với đứa cháu nhỏ bé và côi cút. Trong kinh nguyện và hy sinh, bà chỉ cầu xin làm sao cho cháu bà lớn lên, khỏe mạnh, học hành, có công ăn việc làm, có gia thất và sống một cuộc sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình.

Rồi bỗng một hôm, cháu bà bỏ nhà trốn học. Nó bắt đầu lối sống buông thả, sa đọa khi nó chưa tròn 14 tuổi.

Quá hoảng hốt, bà càng thêm lời cầu. Bà xin khấn hết đền thánh này đến đền thánh khác, hết tuần cửu nhật này đến tuần cửu nhật khác. Bà xin hết lễ này đến lễ khác, chỉ để cầu cho cháu bà được ơn ăn năn trở lại, lo học hành và chuẩn bị cho tương lai. Nhưng rồi thực tế phũ phàng vẫn xẩy tới. Cháu bà có thai, và sinh ra một bé gái khi nó mới 15 tuổi.

Bà cảm thấy như Thiên Chúa đang nguyền rủa và xua đuổi bà. Quá chua chát, quá đắng đót, quá phũ phàng đối với cuộc đời, bà bắt đầu nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa.

Từ bà, qua con gái bà, rồi tới cháu gái bà, tất cả là một câu hỏi khó giải thích. Càng khó giải thích hơn nếu nói rằng Thiên Chúa là tình yêu, và Mẹ Maria là đấng ban muôn ơn lành cho hết mọi người hằng cầu xin với Mẹ.

Nhưng những lời cầu và hy sinh của bà thật sự không trở thành vô nghĩa. Thiên Chúa vẫn lắng nghe những lời cầu xin của bà. Ngài vẫn tiếp nhận mọi hy sinh, và đếm từng giọt nước mắt của bà. Chỉ có điều là hành động của Ngài và cách thức trả lời của Ngài không phải là câu trả lời và hành động mà bà đang muốn có. Bà phải chờ thêm 15 năm nữa sau khi đã chết.

Câu chuyện được tiếp tục là người cháu gái của bà chỉ thay đổi lối sống 15 năm sau ngày bà qua đời. Trong một buổi tối nọ, khi nàng gặp cảnh éo le xô đẩy nàng bước sâu vào con đường trụy lạc, bỗng hình ảnh của bà chợt loé sáng vùng ký ức sâu thẳm tưởng chừng như đã chết của nàng. Nàng chợt bừng tỉnh. Và qua kinh nghiệm chua chát và đắng đót của cuộc đời, nàng đã thức tỉnh, quyết tâm làm lại cuộc.

Nàng bồi hồi xúc động nhớ lại hình ảnh bà ngoại, và hồi tưởng như nghe được những câu kinh, nhìn thấy những giọt nước mắt của bà ngoại mỗi khi cầu nguyện cho nàng. Nàng rất ân hận về cuộc sống quá khứ của mình…

Nhiều khi con vẫn thắc mắc là tại sao Thiên Chúa lại bắt bà phải chờ đợi lâu như thế? Và tại sao Thiên Chúa lại trả lời cho một người đã chết? Câu trả lời này lại cũng chỉ có một mình Chúa biết.

Như người đàn bà đau khổ trên, con ngày ngày vẫn cầu xin và nhìn lên đôi tay từ bi Mẹ, vì biết rằng từ đôi tay tình thương ấy, mọi phúc lành của Thiên Chúa sẽ tuôn đổ trên con.

Thiên Chúa đã đặt vào tay Mẹ kho tàng ơn phúc, để Mẹ ban cho ai, ban khi nào, và ban bao nhiêu theo ý Mẹ muốn. Tư tưởng của Thánh Anphongsô được diễn tả một cách dễ hiểu hơn, có nghĩa là Mẹ chính là Quản Lý mọi phúc lành của Thiên Chúa. Chỉ có một điều con cần phải lưu ý mỗi khi cầu xin Mẹ, đó là để Mẹ tự do hành xử quyền ban phát ơn sủng hợp với thánh ý của Thiên Chúa.

Một người mẹ giầu lòng thương yêu con cái như Mẹ, đứng trước kho tàng ơn phúc vô tận đó, thử hỏi khi được xử dụng quyền ban phát những ơn lành cho con cái mình, Mẹ sẽ vui mừng biết bao. Mẹ lại có thể hẹp hòi, hoặc từ chối những ai chạy đến kêu cầu Mẹ sao.

Thánh Kinh kể lại, xưa kia người Ai Cập trong cơn đói khổ đã đến với Giuse như đến với nguồn sống. Họ tìm gặp Giuse như tìm gặp vị cứu tinh, và người ban cho họ nguồn sinh lực để sống:

“Khi nạn đói lan tràn khắp Ai Cập, người dân kêu cầu cùng Pharaon xin lúa gạo. Pharaon liền nói với những người Ai Cập hãy đến với Giuse và làm những gì ngài bảo họ” (St 41:55).

Như Pharaon xưa đã nói với dân chúng của ông mỗi khi họ tới trước bệ rồng xin cứu sống, ngày nay Thiên Chúa cũng nói với con như vậy khi con đến với Ngài: “Hãy đến với Mẹ Maria”.

Trần Mỹ Duyệt

Chi Dòng Ðồng Công Hoa Kỳ

June 14 - 2013 (154)

ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Một trong những lễ đẹp lòng trái tim Mẹ Maria nhất, chắc chắn là lễ vô nhiễm nguyên tội. Thánh lễ này nhằm tôn kính đặc ân riêng cho mẹ là đã được thụ thai trong lòng thánh Anna một cách tinh tuyền không vương tì ố. Thiên Chúa đã giữ gìn Mẹ khỏi tội tổ tông, tội mà vì mọi người chúng ta khi sinh ra đều vướng mắc vì thuộc dòng giống Adam. Đức Maria, do một đặc ân duy nhất, từ lúc hình thai, vẫn luôn tinh tuyền xinh đẹp trước mặt Chúa. Bởi vậy, do ơn thánh và do cuộc sống, Mẹ luôn là đối tượng đẹp mắt Chúa, theo như lời thánh kinh đã được quy về Mẹ: – Mẹ tuyệt mỹ, không hề vương vấn tội tình.

Người ta có thể tự hỏi, làm sao lại có đặc ân này ? Để trả lời cho trường hợp đặc biệt này, chúng ta chạy đến ơn phúc của Chúa Giêsu Kitô. Ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã có sức mạnh toàn năng để cứu nhân loại khỏi tội nguyên tổ, cũng đã giữ gìn cho Mẹ khỏi tội tổ tông. Chắc chắn đây là một phép lạ, nhưng phép lạ này không lạ lùng hơn các điều kỳ diệu trong cuộc đời Đức Mẹ. Hơn nữa, các dặc ân khác Đức Mẹ thụ hưởng mà chúng ta chấp nhận sễ dàng, đều là hiệu quả của ơn vô nhiễm nguyên tội và giả thuyết ơn huệ này, nếu chối bỏ ơn Vô Nhiễm nguyên tội, mỗi biến cố trong cuộc đời Đức Maria đều giả thiết một phép lạ mới, nhưng với ơn vô nhiễm nguyên tội, mọi điều đều có thể giải thích được dễ dàng, vì không vương mắc tội nguyên, Mẹ Maria vượt qua tất cả những gì là hiệu quả và hình phạt do tội gây nên, như tình tư dục, thống khổ và tan rữa sau khi chết. Con người không mắc tội nguyên tổ là một bí ẩn không thể giải thích nổi. Đức Maria, nếu mắc tội nguyên tổ lại còn là một bí ẩn khó giải thích hơn nữa.

Niềm tin vào sự vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria là một niềm tin không thễ thay đổi. Các nhà thần học đã chứng minh điều đó, các giáo phụ giảng dạy, các nhà giảng thuyết phổ biến… nhưng thời đại của chúng ta được thấy sự vinh quang cao cả này trở thành tín điều trong đức tin Kitô giáo, ngày 8 tháng 12 năm 1854, trước sự hiện diện của 54 hồng y, 42 Đức Tổng giám mục và 92 Đức Giám mục cùng đoàn người đông đảo, vị đại diện Chúa Kitô đã tuyên bố tín điều từ bao thế kỷ đợi trông. Chúng ta kể ra một vài lý do khiến Giáo hội công bố tín điều : Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.

1. Chúa Giêsu Kitô, vì sự thánh thiện của Ngài, phải được sinh ra bởi người mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội. Đấng thấy cả tì vết nơi các thiên thần, lại chịu sinh ra từ một thân thể bị nhơ nhớp vì tội lỗi được sao ? Thân xác của Chúa Kitô là xác thân bởi Mẹ Maria. Vậy nếu Mẹ Maria thụ thai trong tội, hẳn Ngài đã thông truyền cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế vì tội lỗi. Quả là một điều ô nhục cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế vì tội lỗi. Quả là một điều ô nhục cho Chúa !

2. Vinh quang của Chúa Giêsu phải giữ cho Mẹ Người khỏi vết nhơ tội nguyên. Mục đích của Chúa Con khi xuống trần gian này là để hủy diệt sự uy quyền của quỉ dữ và tội lỗi. Người đã thắng ma quỉ khi nhờ phép rửa tội, đưa các Kitô hữu ra hỏi vòng tội lỗi, thanh tẩy các tội nhân nhờ phép giải tội. Người đã thắng ma quỉ cả trước khi Người sinh ra, như khi thánh hóa từ lòng mẹ tiên tri Giêrêmia, thánh Gioan tẩy giả, thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ.

Nhưng những chiến thắng này chưa hoàn toàn. Còn một lúc mà quyền lực hỏa ngục khoe khoang rằng: có thể làm cho ơn thánh bị vô hiệu, đó là lúc thụ thai. Vậy sự chiến thắng sẽ hoàn hảo nếu Mẹ Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội, đặc ân này thể hiện lời hứa đã được loan báo từ trước: – Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa giòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp nát đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St 3,15).

Niềm tin vào ơn vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria đã được chính Đức Mẹ chứng thực. Năm 1858, nghĩa là chỉ bốn năm sau ngày tuyên bố tín điều, Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và tuyên bố : – Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội ngay từ buổi đầu thai.

Việc mừng trọng thể lễ Đức Trinh nữ Maria Vô nhiễm nguyên tội vào mùa vọng có một ý nghĩa đặc biệt, như mừng “cuộc chuẩn bị căn bản cho Đấng Cứu thế xuất hiện, vầng đông sáng tươi của một Hội Thánh không tì vết” (Marialis Cultus 3)

Hoa dang Me

Hiền … BERNADETTE

.

….Thế nào là Hiền? Và thế nào là Thảo?

Ðể trả lời câu hỏi này, sau đây là những suy nghĩ về Hiền, còn Thảo…nếu có dịp, xin được luận sau.

Ðại cương: ‘ Hiền là người có những nhân đức như: Khiêm nhường, dịu dàng, nhân từ, ngay thẳng, nhẫn nhục và…vâng lời’.

Trong Giáo hội Công giáo, mỗi khi nói đến gương hiền lành và khiêm nhường, có lẽ không ai là không nghĩ tới Thánh Nữ Têrêsa Hài Ðồng. Thánh là Ðấng được nhiều người nhắc tới, được người đời viết về đời sống của Thánh nhiều nhất. Tuy thế, còn có một người khác, thành tích ‘Hiền lành và khiêm nhường’ xem ra cũng đặc biệt lắm, nhưng lại ít được nói tới, người đó chính là cô Bernadette.

Bernadette (1844-1879), người có diễm phúc vô cùng lớn lao là được Ðức Mẹ hiện ra với cô, không phải một lần mà tới 18 lần chỉ trong vòng 5 tháng, từ 11 tháng 2 đến 16 tháng 7 năm 1858 tại Lộ Ðức thuộc miền Nam nước Pháp.

Trước sự việc lạ lùng và quan trọng như thế, Bernadette, từ hồi hộp, lo sợ đến vui mừng, thích thú, cô hăm hở đi loan báo cho mọi người, kể cả các Bề trên địa phương, Với ai cô cũng thành khẩn trình thuật đầu đuôi, tỏ tường, thế nhưng…thật là thất vọng và lo sợ, nghe Bernadette thuật lại, người tin thì ít mà kẻ nghi ngờ, không tin thì nhiều, khiến cô vô cùng bối rối, lo âu! Có người còn buộc tội cô là bịa đặt, láo lếu, thậm chí nhiều người còn chê bai, nạt nộ, ngay cả các đấng thẩm quyền Tôn giáo địa phương cũng chẳng ai tin cô! Người ta đã nói thẳng với cô là: ‘Chúng tôi không tin những chuyện hiện ra này đâu, đừng nói nhiều nữa’.

Nghe những lời cự tuyệt gần như phỉ báng, chống đối như vậy quá nhiều, Bernadette biết mình phải làm gì, cô chạy đến bắt đền và ăn vạ với Mẹ, cô liên tục cầu nguyện, xin Mẹ thêm sức mạnh chịu đưng cho cô, xin cho được can đảm hơn trong sứ mạng đem Tin Mừng này đến cho mọi người và nhất là xin Mẹ soi sáng để người ta nhận ra được đây là ơn đặc biệt mà Mẹ giành cho loài người.

Thế rồi, thời gian ngắn sau đó, thật ngạc nhiên, trước những thờ ơ, lạnh nhạt cũng như chống đối công khai diễn ra hằng ngày, người ta thấy, Bernadette chẳng những không còn tỏ ra thất vọng nữa, trái lại, cô sống rất hồn nhiên, bình thản. Ðể trả lời cho những người cô cho là cứng lòng này, cô vui vẻ nói:’ Ðức Mẹ hiện ra với cháu thì cháu kể cho qúi ông bà hay, cháu đâu có nhiệm vụ làm cho qúi ông bà Tin, cháu chỉ làm nhiệm vụ nói để qúi ông bà biết thôi mà’.

Qua câu trả lới trên đây, chúng ta thấy Bernadette, dù chỉ là một thiếu nữ đồng quê, tuy mới 14 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan, hiền lành và khiêm tốn tới mức nào!

Thời gian sống trong dòng tu, Bernadette được tất cả các chị em trong dòng thương mến và cảm phục. Một chị nữ tu đã nói: “Chị Bernadette rõ ràng là một tấm gương của mọi nhân đức mà tất cả chị em trong dòng chúng tôi phải noi theo”. Mẹ Bề trên thì bảo: “Bernadette là một Thiên Thần, Bernadette trong trắng như một đoá hoa. Trước khi nhận Bernadette vào dòng, tôi cũng nghe người ta đồn đãi rất nhiều về cô bé này, thoạt đầu, tôi không tin, nhưng về sau…rõ ràng là Mẹ Maria đã ban cho Bernadette Hồng Ân giữ được nét đơn sơ, trong sạch, hồn nhiên, hiền lành của một trẻ thơ, khi vào dòng rồi tôi mới nhận những lời đồn này là…thiệt”.

Bernadette được khấn vào dòng ngày 30 tháng 10 năm 1867.

Theo truyền thống sinh hoạt của dòng, trong ngày khấn, Ðức Giám mục điạ phương thường đến chủ tế. Ðiều khiến nhiều người thắc mắc là không hiểu tại sao, trong ngày vui mừng này, Mẹ Bề trên lại trình ngay với Ðức Cha là… ‘Bertnadette hiền lành, khiêm tốn thì có nhưng …thưa Ðức Cha, em vụng về lắm’! Bất ngờ nghe vậy, Ðức Cha ngạc nhiên vô cùng, Ngài không tin, để cho ra lẽ, Ngài liền gọi Bernadette lên hỏi: “Con quả thật không biết làm cái gì hết sao?” Bernadette cúi đầu, nghẹn ngào trả lời: “Thưa Ðức Cha, Mẹ Bề trên thật không sai, con không biết làm gì cả!” Ðức Cha nói tiếp: “Thật tội nghiệp con, Cha phải làm gì cho con bây giờ? Mà tại sao con lại xin vô dòng chứ?” Bernadette sững sờ, ngước mắt nhìn vị Giám Mục, hai tay đang đặt trên vai cô, trong cử chỉ âu yếm, đầy nhân từ, giây lát, Bernadette thổn thức thưa: “Hồi còn ở Lộ Ðức, con đã trình bày với Ðức Cha chuyện này mà, Ðức Cha bảo con là…không sao, con cứ xin vô dòng đi”. Nghe Bernedette nói thế, vị Giám Mục tỏ ra bối rối, hơi lung túng, không biết phải giải quyết ra sao, bỗng Ngài nói: “thì ít ra con cũng phải biết gọt khoai, nhặt rau chứ!” Bernadette đơn sơ thưa: “Con sẽ cố gắng Ðức Cha ạ”. Mỉm cười, Ðức Cha quay sang Mẹ Bề trên, chậm rãi nói: “Thôi được, nhà dòng nên giữ trẻ này ở lại thêm một thời gian nữa, theo dõi, nếu thấy là cô bé hữu ích trong vài công việc nhỏ nào đó thì gửi ngay đi giúp các xứ đạo cũng tốt vậy.”

Bất an trong xã hội ngày nay, căn nguyên là từ những rối loạn nơi tâm hồn con người. Chỉ có những tâm hồn biểu lộ những đức tính hiền lành và khiêm nhường mới hy vọng có được bình an thật sự. Bạn công nhận điều này không? Có phải khi con người đã nằm…xoài (không phải là nằm xuống đâu) trên đất mới không thể té phải không? Cũng thế, người hiền lành, khiêm nhường, có bao giờ sợ… mất danh thơm đâu. Người hiền và khiêm nhường luôn vui với những gì mình có, không mơ tưởng hão huyền, xa thực tế. Ngoài ra, người hiền vốn là người có lòng quảng đại, không đố kỵ, nhỏ nhen, không ghen, hờn, ấm ức, lại luôn chia sẻ, nâng đỡ tha nhân những gì cần thiết. Ðức Khổng Tử bảo: ‘Người hiền thường hay nhường nhịn mà nhường nhịn lại chính là hành động của kẻ Dũng’. Hiểu được thế, chúng ta rút ra được nhận xét: Khi người ta chấp nhận nhường và nhịn thì rõ ràng là người ta đã chấp nhận thua và thiệt. Khi người nào đã chấp nhận thua và thiệt, người đó chỉ có thể thêm bạn và nhất định bớt thù. Khi đã không sợ thiệt thì người ta có thể sống hoà thuận với mọi người.

Trong cuộc sống đầy bon chen, cám dỗ này, chỉ cần quan sát chung quanh chúng ta cũng dễ nhận ra một điều: Kẻ hung hăng, háo thắng, người không biết nhường nhịn, chính đó là kẻ… hèn! Người đã hèn thì còn trông mong chi nơi họ có được tinh thần mã thượng hay lòng bao dung, nhường nhịn, bởi bản chất của họ là loại người luôn từ chối hoặc lẩn trốn trách nhiệm và… hy sinh!

Qua sử sách (Ta và Tàu), thấy rõ: Chỉ những xứ sở nào có được những vị Vua Anh Minh, biết trọng người Hiền thì xứ sở, đất nước ấy mới có được bình an, thịnh vương mà thôi.

Vymainguyen

Hanh Huong 2013. (36)

KẾT THÚC TAM NHẬT MỪNG ĐẠI LỄ ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP

CÙNG MẸ HẰNG CỨU GIÚP LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO

Thời gian qua đi thật mau, những ngày Linh Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp La Mã Bến Tre hiện diện ở Kỳ Đồng đang dần khép lại. Dẫu vắn vỏi nhưng cũng đã thỏa lòng những anh chị em không có điều kiện về với Mẹ tại vùng đất thiêng La Mã Bến Tre.

Chiều hôm nay, ngày kết thúc Tam Nhật Mừng Đại Lễ Mẹ Hằng Cứu Giúp được diễn ra trong bầu khí trang nghiêm và sốt sắng.

Từ sáng, Thánh lễ và các giờ Cầu nguyện – Hành hương – được cộng đoàn cử hành thật sốt sắng bên Linh Ảnh Mẹ La Mã Bến Tre.

Và rồi, 16 g 00, giờ hành hương đặc biệt kính Mẹ được bắt đầu.

Trong giờ hành hương chiều nay, Cha Giuse Nguyễn Trường Xuân mời gọi cộng đoàn nhìn lên Mẹ, tin tưởng và hết lòng phó thác cuộc đời trong tay Mẹ. Với tất cả tâm tình, Cha Giuse thầm thĩ với Mẹ : “Ước gì sự hiện diện của chúng con làm vui lòng Mẹ và bổ sức cho linh hồn chúng con”.

Cha Giuse mời gọi cộng đoàn suy niệm mầu nhiệm thứ hai Mùa Vui  … Mẹ hoàn toàn đẹp lòng Thiên Chúa và được Chúa ở cùng. Mẹ mang  Chúa đến cho bà Elizabeth, Mẹ mang Chúa đến cùng bà Elizabeth . Gioan Tẩy Giả nhảy mừng vì niềm vui lớn lao, niềm vui vì Chúa đến.

Trước khi cộng đoàn dâng Lễ, Cha Giuse mời gọi cộng đoàn cùng hiệp dâng những ý Lễ chiều nay, cách riêng cầu nguyện cho linh hồn Giuse vừa được Chúa gọi về.

Sau đó, cộng đoàn cùng ôn với nhau một số bài hát sẽ hát trong Thánh Lễ chiều nay.

16 g 30 cộng đoàn cùng ca đoàn cất lên lời ca nhập Lễ rất quen thuộc đón đoàn đồng tế và Cha chủ tế Thánh Lễ tạ ơn : “Từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường đường đưa ta đi lên Đền Chúa ta …”. Thánh Lễ đồng tế chiều hôm nay gồm các cha trong và ngoài cộng đoàn Sài Gòn. Chủ tế là Cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích – Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế.

Cha Giám Tỉnh Giuse ngỏ lời chào cộng đoàn và cộng đoàn cùng chào đón nhau bằng một tràng pháo tay thật giòn giã.

Cha Giuse thân thưa cùng cộng đoàn : “Anh chị em thân mến ! Chiều hôm nay là ngày thứ ba trong Tam Nhật để mừng Năm Thánh, ngày bế mạc. Kết thúc một Năm Thánh không phải là chúng ta hết tất cả những gì tốt lành mà chúng ta đã thực hiện trong năm vừa qua nhưng đây lại là khởi đầu để chúng ta chuẩn bị  bước vào một thời gian mới và ở đó những gì mà chúng ta có sau một năm lại được phát triển hơn nữa. Nhất là chúng ta  được cảm nhận thấy tình thương của Mẹ Maria càng ngày càng tràn đầy và chan chứa trên cuộc đời của chúng ta.

Kết thúc Năm Thánh lại là cơ hội để chúng ta đón nhận ân sủng và khởi đầu chuẩn bị bước đi mới trong đó chúng ta có Mẹ Maria đồng hành với chúng ta, trong đời sống thánh hiến của chúng ta, trong việc chúng ta loan báo Tin Mừng, xin Mẹ Maria nâng đỡ chúng ta, đồng hành với chúng ta để chúng ta mạnh mẽ, hân hoan thực hiện chương trình Chúa trao phó.

Giờ đây chúng ta xin Chúa cho chúng ta nhận ra những thiếu sót, yếu hèn đôi lúc chúng ta không để cho tình yêu mến, đời sống đức tin dẫn dắt chúng ta.. Xin Chúa tha thứ và xin Người cho chúng ta mạnh mẽ hơn nữa. Chúng ta xin Chúa tha thứ những lỗi lầm cho chúng ta”.

Trong bài chia sẻ, Cha Giám Tỉnh mời gọi cộng đoàn khi nhìn lên Linh Ảnh của Mẹ Hằng Cứu Giúp có chi tiết chiếc giày rơi ra khỏi chân Chúa Giêsu làm cho nhiều người suy nghĩ nhưng rồi gần đây có nhiều nhà nghiên cứu đã giải thích cho chúng ta ý nghĩa, đọc ra được, học được, nghe được hiểu được những gì Chúa muốn nói … Nhìn đôi chân chiếc giày rớt ra là chân phải cho người ta nhìn thấy chân đó …

Từ đó, Cha Giuse gợi lên thân phận con người và đôi mắt của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu nhìn sứ mạng để Ngài chu toàn và Mẹ Maria là người hỗ trợ, Mẹ Maria bế Chúa Giêsu và muốn nói với chúng ta Chúa Giêsu chu toàn sứ mạng mình … Chúa Giêsu cầm tay của Mẹ và Mẹ mở bàn tay để Chúa Giêsu tự do dùng đôi tay của Ngài muốn gì thì Mẹ vẫn sẵn sàng … Mẹ Maria là người được mời gọi cộng tác với Chúa trong sứ mạng Nhập Thể và Cứu Độ … Mẹ đã cộng tác vào chương trình cứu độ, Mẹ giúp cho Chúa Giêsu thấy sứ mạng cuộc sống hàng ngày …

 

Và rồi Cha Giuse mời gọi cộng đoàn nhìn lên Mẹ Hằng Cứu Giúp luôn luôn giúp chúng ta vượt qua nghịch cảnh …

Cha Giuse kể lại chuyện những anh em đi giảng tuần Đại Phúc đã chia sẻ những người đã nhận ơn lành của Mẹ Hằng Cứu Giúp … Mẹ đã chuẩn bị cho mình biết đón nhận Tin Mừng. Nhờ Mẹ chúng ta đón nhận những ân huệ và chúng ta ý thức Chúa thương chúng ta và đem người khác đến với Chúa và ân sủng …

Và rồi, Cha Giuse gợi lại hình ảnh Mẹ Maria La Mã Bến Tre Hằng Cứu Giúp đã cứu cha con ông Biện Hạt … Mẹ cho thấy rằng Mẹ vẫn còn ở đây. Cho dù tối tăm nhưng không che lấp Mẹ. Mẹ vẫn còn đó, có đó để giúp chúng ta. Mẹ Maria luôn luôn cứu giúp chúng ta nhưng chúng ta có sẵn lòng đón Mẹ đến cứu giúp chúng ta không ? Hôm nay chúng ta dâng Thánh Lễ cùng xin Mẹ đồng hành chúng ta trong công cuộc loan báo Tin Mừng … Xin Mẹ phù giúp chúng ta và nương ẩn nơi Mẹ. Xin Mẹ cùng đi với Mẹ trên đường loan báo Tin Mừng … biết bao nhiêu người đang thiếu sự trợ giúp thiêng liêng … chúng ta đến van nài, chẳng lẽ Mẹ cứng lòng với chúng ta. Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta … Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ làm cho mọi người biết Mẹ … Hãy làm sao cho mọi người biết Mẹ …

Sau khi ban phép lành cuối Lễ, Cha Giám Tỉnh thay mặt Nhà Dòng cảm ơn cộng đoàn đã đến đây để dâng lời cầu nguyện … Mẹ Maria vui mừng vì sự hiện diện rất đông đảo của anh chị em … Xin Mẹ Maria nâng đỡ anh chị em, đồng hành với anh chị em trong đời sống hàng ngày …

Thánh Lễ tạ ơn của Tam Nhật Mừng Đại Lễ Mẹ Hằng Cứu Giúp khép lại nhưng nhiều người người vẫn nán lại để ngỏ tâm tình của Mẹ.

Được biết sáng thứ Hai, 27 tháng 6, Linh Ảnh Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp sẽ trở lại Trung Tâm Hành Hương La Mã Bến Tre.

Và vào lúc 17 g 30 chiều Thứ Hai, ngày 27 tháng 6 sẽ có giờ hành hương kính Mẹ và sau đó, 18 g 00 sẽ có Thánh Lễ đồng tế Bế Mạc Năm Thánh 150 Năm Đức Pio IX trao Bức Linh Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp cho Dòng Chúa Cứu Thế do Đức Giám Mục Stêphanô Tri Bửu Thiên – Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ chủ tế.

KẾT THÚC TAM NHẬT MỪNG ĐẠI LỄ ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP

Huệ Minh

LINH ẢNH ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP

Bức chân dung Mẹ Chúa Trờí,
Vốn rât quen thuộc với người Việt Nam.
Tay trái Mẹ ẵm Chúa Con,
Măt Mẹ nhìn xuống chúa chan ân tình.
Chúa Con bên Mẹ nep mình,
Giữ chặt tay Mẹ, ngoái nhìn phía sau.
Hai vị Tổng lãnh dâng cao,
Tiên báo hính khổ mai sau của Người.
Chúa có ý dạy người đời :
Duy chì có Mẹ là nơi nương nhờ.
Bao la tình Mẹ vô bờ,
Mẹ là Sao Sáng dẫn đưa về Trời.

Hy-lạp họa sĩ tuyệt vời,
Thể hiện tac phẩm, muôn đời ngợi ca.
Ngay từ thế kỉ Xlll,
Dân chúng trên đảo Crê-ta tôn sùng.

Tại Rôma, chính Mẹ mong:
Ảnh Thánh kính ở Thánh đường Matthêu.
Chiến tranh tàn phá tiêu điều,
Ảnh được cât giấu, mai sau tôn thờ.

Đền thờThánh Alfonsô,
Long trọng rươc Mẹ, Giáo Đô tưng bùng.
Dọc đường, Mẹ tỏ tình thương :
Cứu giup nhiếu kẻ khốn cùng yếu đau.

Nay khăp bốn biển năm châu,
MẸ HẮNG CỨU GIUP chẳng đâu không thờ.
Với lòng con thảo đơn sơ,
Xin Mẹ cứu giup những giờ gian nguy :
Nay, mai và luc sinh thì,
Cả nơi luyện ngục, cậy vì Mẹ thương.
Đưa con về tới Thiên Đường,
Cùng Mẹ hưởng Ánh Vinh quang muôn đời.

 

Hùng Vũ

Lễ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được cử hành theo bộ lễ nào?

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Ngày 27-6 là ngày lễ kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, mà linh ảnh của Ngài được tôn kính ở Rôma. Bản sao của linh ảnh này được tìm thấy trong hầu hết các giáo xứ Công Giáo khắp thế giới, và nhiều giáo xứ thực hành hàng tuần việc sùng khấn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Dòng Chúa Cứu Thế, là Dòng gìn giữ linh ảnh, có một Thánh Lễ riêng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, vốn được sử dụng trong ngày 27-6 tại các giáo xứ và cộng đoàn của Dòng. Bộ Thánh Lễ này được tìm thấy trong phần phụ thêm phụng vụ của Dòng và không bao gồm trong “Bộ sưu tập các Thánh Lễ của Đức Trinh Nữ Maria”. Cũng có các giáo xứ khác, hoặc các giáo phận do các Dòng tu khác phụ trách, sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hoặc thực hành hàng tuần việc sùng khấn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Liệu các giáo xứ này được phép sử dụng Thánh Lễ riêng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp vào ngày 27-6 không, thưa cha? – G. L., Madera, California, Mỹ.

Đáp: Đây là một câu hỏi hóc búa từ quan điểm pháp lý. Thật vậy, trong khi vấn đề về việc cử hành lễ các chân phước và các thánh đã được làm rõ ràng, lễ kính các danh hiệu của Đức Mẹ lại chưa được rõ ràng.

Cũng cần ghi nhận rằng lễ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp lại trùng ngày với lễ kính thánh Xyrillô thành Alexandria trong lịch phổ quát, và thậm chí còn không có trong lịch của Giáo phận Rôma.

Tuy nhiên, nếu có một lòng sùng kính đặc biệt đối với danh hiệu này trong một cộng đồng địa phương, lễ này có thể luôn được cử hành như một Thánh lễ ngoại lịch và sử dụng một trong các bộ Thánh lễ thích hợp nhất về Đức Mẹ trong Sách Lễ. Thí dụ, lời nguyện nhập lễ của công thức số 6 trong phần lễ chung về Đức Trinh Nữ Maria là “Lạy Chúa là Thiên Chúa, chúng con nài xin Chúa cho chúng con là tôi tớ Chúa luôn đuợc hồn an xác mạnh, và nhờ lời chuyển cầu thần thế của Ðức Maria diễm phúc trọn đời đồng trinh, xin giải thoát chúng con khỏi nỗi ưu phiền đời này và đuợc hưởng niềm hoan lạc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô Con Chúa, ..”

Nhưng sẽ là vấn đề khác: liệu các công thức riêng được chuẩn y cho Dòng Chúa Cứu Thế có thể được sử dụng cách phổ quát không.

“Phần Giới thiệu Bộ sưu tập các Thánh Lễ của Đức Trinh Nữ Maria” nói như sau:

“19. Bộ sưu tập các Thánh Lễ của Đức Trinh Nữ Maria, được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phê duyệt, và được ban hành bởi Thánh Bộ Phượng Tự, có một mục đích cụ thể liên quan đến sự tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria. Bộ sưu tập tìm cách thúc đẩy các cử hành, vốn được ghi dấu với giáo lý trong sáng, sự đa dạng phong phú của các chủ đề, và việc tưởng niệm chính đáng về hành vi cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Trinh Nữ trong quan điểm về mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội.

“20. Bộ sưu tập các Thánh lễ được tạo thành chủ yếu bởi các bản văn cho các Thánh Lễ Đức Mẹ, vốn được tìm thấy trong phần riêng của các Giáo Hội địa phương, hoặc của các Dòng tu hoặc trong Sách Lễ Rôma.

“21. Bộ sưu tập các Thánh lễ được dành cho: các đền thánh Đức Mẹ, nơi mà Thánh Lễ về Đức Trinh Nữ Maria được tổ chức thường xuyên, phù hợp với các quy định được ghi trong các số 29-33; các cộng đồng Giáo Hội, vốn mong muốn cử hành vào ngày thứ Bảy mùa Thường niên lễ kính Đức Trinh Nữ, phù hợp với điều khoản được quy định trong số 34. Như được nêu ra trong số 37, việc sử dụng bộ sưu tập các Thánh lễ này được phép vào những ngày mà trong đó, theo Qui chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, linh mục được tự do chọn Thánh lễ để cử hành.

“22. Việc ban hành Bộ sưu tập các Thánh Lễ của Đức Trinh Nữ Maria không đưa thêm sự thay đổi nào trong lịch chung của Rôma, được ban hành ngày 21-3-1969, trong Sách Lễ Rôma, ấn bản mẫu thứ nhì, ban hành ngày 27-3-1975, trong Sách Bài Đọc cho Thánh Lễ, ấn bản mẫu thứ nhì, ban hành 21-1-1981, hoặc trong các hệ thống chữ đỏ đang có hiệu lực”.

Các qui định này cho thấy rằng Bộ sưu tập không chứa tất cả các Thánh lễ có thể của các Giáo Hội địa phương hoặc các Dòng tu. Một sự lựa chọn đã được thực hiện và mọi sự lựa chọn có nghĩa là một sự từ bỏ. Vì vậy, không có công thức cho lễ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, nhưng có một công thức cho lễ Đức Mẹ Phù Hộ Các Tín Hữu. Có lẽ danh hiệu này được ưa thích hơn, vì nó kết nối đến các Giáo hoàng, và bởi vì danh hiệu ấy là bổn mạng của nước Úc, New Zealand và thành phố New York.

Điều khoản của số 22 nói rằng các qui chế tổng quát cần được tuân giữ. Nói chung, các qui chế này đòi hỏi sự chuẩn y của Hội đồng Giám Mục về bất cứ bản dịch nào, vốn sẽ được dùng trong lãnh thổ ấy. Trường hợp ngoại lệ cho quy định này là chính xác các bản văn ấy và các bản dịch ấy đã được phê duyệt trực tiếp bởi Tòa Thánh cho việc sử dụng của các Dòng tu trong các nhà và nhà thờ của họ. Mặc dù không có sự giả định rằng chúng có thể được sử dụng bên ngoài bối cảnh này, chúng không cần sự chấp thuận rõ ràng của Hội đồng Giám Mục.

Trong hầu hết các trường hợp, các văn bản nhắc đến các chân phước và các thánh của Dòng tu, và do đó chúng có một sự sử dụng hạn chế. Thỉnh thoảng chúng nhắc đến lễ tước hiệu hoặc thánh bổn mạng của Dòng tu, nhưng các công thức Thánh Lễ thường khá là đặc biệt cho linh đạo đặc biệt của Dòng tu, và như thế là không phù hợp cho việc sử dụng phổ quát.

Tuy nhiên, bất kỳ vị thánh nào trong Sổ Các Thánh Công Giáo Rôma có thể được mừng vào ngày lễ của vị ấy, miễn là không có lễ khác hoặc lễ nhớ bắt buộc trong ngày ấy. Tôi tin rằng thật là khá an toàn để nói rằng nếu lễ vị thánh có một lời nguyện nhập lễ đã được phê duyệt hợp lệ, mặc dù nó là không rõ ràng trong Sách Lễ Rôma, thì lời nguyện nhập lễ của vị thánh ấy có thể được sử dụng.

Theo luận lý này, tôi nghĩ rằng người ta có thể sử dụng một văn bản đã được chấp thuận cho một danh hiệu Đức Mẹ không có trong Sách Lễ Rôma, nhưng với một ngày lễ đã được công nhận. Trong trường hợp này, người ta phải luôn đoan chắc rằng bản văn được sử dụng trong phụng vụ đã được phê duyệt bởi Tòa Thánh. Thí dụ, các bản văn cho một số danh hiệu của Đức Mẹ chỉ được phê duyệt trong ngôn ngữ của một quốc gia, nơi mà Đức Maria được tôn kính dưới danh hiệu đó, và không có bản gốc Latinh. Không thể dùng một bản dịch riêng tư từ bản gốc, nhưng người ta nhất thiết phải sử dụng phần lễ chung về Đức Trinh Nữ Maria.

Trong trường hợp hiện tại, tôi chỉ có thể theo dõi các bản văn cụ thể của ngày lễ này, vốn đã được sử dụng trước các cải cách của Công Đồng chung Vatican II. Tôi không biết liệu chúng tương ứng với các công thức thực tế được sử dụng ngày nay trong Dòng Chúa Cứu Thế chăng. Tuy nhiên, cho rằng các bản văn hiện hành đã nhận được sự chấp thuận của Tòa Thánh, chúng chắc chắn là phù hợp với qui định liên quan đến các phẩm chất giáo lý và thiêng liêng, được đề cập trong số 19 ở trên.

Bản dịch không chính thức của bản văn từ Công đồng chung Vatican II là:

Lời nguyện nhập lễ: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã ban cho chúng con, Mẹ của Chúa là Đức Maria. Xin ban cho chúng con biết luôn luôn chạy đến cùng Mẹ, để ngày ngày được hưởng hoa trái ơn Cứu Chuộc. Chúa hằng sống và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”.

Lời nguyện tiến lễ: “Lạy Thiên Chúa, vì lòng nhân hậu của Chúa và nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, xin Chúa thương nhận lễ vật này, mà ban cho chúng con bây giờ được bình an, và mai sau được hưởng phúc muôn đời. Chúng con cầu xin…”

Lời nguyện hiệp lễ: “Lạy Chúa Giêsu, vì lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Vô nhiễm của Chúa, xin cho chúng con luôn được Mẹ Cứu Giúp, để chúng con thoát mọi hiểm nguy, và được hiệp nhất với nhau trong tình thương của Mẹ. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời…” (Bản Việt ngữ của Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam).

Tôi sẽ nói rằng ít nhất lời nguyện nhập lễ là phần nào gắn kết với các thành viên của Dòng Chúa Cứu Thế, là những người gìn giữ linh ảnh Đức Mẹ gốc tại Rôma. Các lời nguyện này, có thể là được soạn thảo tương đối gần đây.

Nếu chúng tương ứng với các lời nguyện hiện tại, mặc dù trong một bản dịch hiện đại hơn, hình như chúng không dễ dàng chuyển tải đến tình hình giáo xứ vượt quá giới hạn của Dòng tu.

Tuy nhiên, nếu các bản văn hiện nay là phù hợp, một nhà thờ được dâng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, trong trường hợp này, ngày lễ là một lễ trọng trong chính Giáo Hội, có thể sử dụng các bản văn ấy.

Cũng có thể là tình hình như thế cho một nhà thờ, mà ở đó ảnh Đức Mẹ Hắng Cứu Giúp được tôn kính, nhưng dâng nhà thờ theo một danh hiệu khác, thì Thánh Lễ được cử hành như một Thánh lễ ngoại lịch.

Sau hết, nếu các công thức của một Thánh Lễ Đức Mẹ đã được phê duyệt không gắn chặt chẽ với linh đạo của một Dòng tu đặc biệt, có lẽ không hợp lý rằng người ta có thể cử hành lễ trong một nhà thờ của Dòng tu, và bị cấm cử hành lễ này trong một nhà thờ cách đó vài dặm đường, nhất là cho rằng một thánh nhân không nổi tiếng của cùng Dòng tu ấy được mừng một cách hợp pháp.

Tôi tin rằng đây là câu trả lời đúng, nhưng phải thừa nhận rằng các quy tắc là phần nào không rõ ràng trong đó, và trong các trường hợp tương tự.

(Nguyễn Trọng Đa, Zenit.org 26-4-2016)

Thiên Chúa Cất Tiếng Gọi Con Người Đáp Trả

Thiên Chúa Cất Tiếng Gọi Con Người Đáp Trả

( Lc 9, 51-62)

Bước vào Chúa nhật thứ XIII thường niên, với chủ để chính là : “Chúa cất tiếng gọi“. Ngỏ lời là sáng kiến của Thiên Chúa và con người đáp trả. Êlia và Êlisê là hai nhân chứng. Chúa đã dùng Êlia gọi Êlisê, Êlisê đáp trả (x.1 V 19,16b.19-21). Vì là sáng kiến của Thiên Chúa nên Chúa gọi người Chúa muốn :”Hãy theo Ta” (Lc 9, 51-62). Hôm qua cũng như hôm nay, Thiên Chúa vẫn đến gọi con người ngay giữa dòng đời. Chúa gọi Êlisê khi ông đang cày ruộng (x.1 V 19, 19). Tiếng gọi của Thiên Chúa là nhất. Chúa gọi, Êlisê không thể trốn được, đến nỗi ông không nói được gì. Tiếng gọi của Thiên Chúa là bắt buộc. Êlia làm điều tốt cho Êlisê khi ông đòi trở về nhà để hôn chào cha mẹ. Êlisê bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: “Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài” (1 V 19, 20).

Khung cảnh thật đơn sơ, nhưng đầy xúc động, không giấu được. Khi Chúa gọi con người, con người không thể cưỡng lại, Ngài không dùng sức mạnh để áp đặt. “Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai” (1 V 19, 19) nghĩa là công việc gần xong. Thiên Chúa đến ra cho ông một chân trời mới. Qua trung gian Êlia, Thiên Chúa gọi Êlisê một cách rất kín đáo : “Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông” (1 V 19, 19). Không một lời chiêu mộ, không một huấn lệnh để bắt ông vâng theo. Êlisê thấy sự công chính và hành động ngôn sứ của Êlia, ông hiểu theo lòng mình. Tiếng Chúa gọi lay động lòng người.

Để đáp lại tiếng Chúa, con người phải có tự do là lẽ đương nhiên. Tự do này do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô nói : “Đức Kitô giải thoát chúng ta để chúng ta thực sự tự do” (Gl 4, 31b). Chúng ta chỉ thực sự tự do khi chúng ta hoàn toàn đáp lại tiếng Chúa. Từ lúc Thiên Chúa gọi đến lúc con người đón nhận ân sủng để đáp trả cách tự do là cả một thời gian dài để đắn đo và cân nhắc. Như Êlisê, hành động trước tiên là ông thu mình vào trong dĩ vãng, và tìm kiếm sự an toàn nơi gia đình. Đây là người chắc chắn, nhưng ơn của Thiên Chúa là không đổi. Êlia từ chối sự trốn chạy của Êlisê, dù Êlisê không lượm áo choàng Êlia tặng cho. Khi Êlisê tìm gặp được sức mạnh, ông nắm bắt ngay, ông bỏ lại tất cả những gì mình đang có để dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.

Tương tự như bài Tin Mừng, có ba người được gọi (x. Lc 9, 51-62). Nhưng lịch sử cuộc đời của mỗi người khác nhau. Vấn đề là tiếng Chúa gọi và sự đáp trả của con người.

Câu hỏi được đặt ra cho người thứ nhất khiến chúng ta suy nghĩ. Trước hết, anh không được Đức Giêsu gọi, anh đến xin làm môn đệ Người (x. Lc 9, 57). Giống như ở trường các thầy Rabbi, học trò đến xin theo học. Đức Giêsu không ở trong trường đặc biệt này, Người không có điều kiện ổn định, Người đang trên đường. Bước vào trường Giêsu là lên đường, từ bỏ tất cả những gì ổn định, ngay cả gia tài và địa vị. Theo Đức Giêsu là gắn bó với Người, lên đường tiến về phía trước, cần phải tự mình quyết định, nhưng không thể tiến bước một mình.

Người thứ hai là một ngoại lệ. Chính Đức Giêsu gọi anh. “Hãy theo Ta” ( Lc 9, 59). Người này được kêu gọi cách đặc biệt đi vào trong giao ước tình yêu gắn kết với Thầy. Đối với anh, Đức Giêsu yêu cầu từ bỏ cách triệt để, không trở về chôn cất mẹ cha. Khi anh thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa” ( Lc 9, 59 – 60). Chúng ta không biết anh đáp lại ra sao. Nhưng đòi hỏi ở đây cho thấy, phục vụ Nước Trời luôn kéo theo một sự từ bỏ tận căn. Từ bỏ chính là thước đo tình yêu của ta đối với Đức Giêsu.

Người thứ ba xin theo Đức Giêsu với điều kiện (x. Lc 9, 61). Như trong bài đọc I, thái độ là điều cần phải suy nghĩ. Đối với Đức Giêsu tra tay vào cầy, nghĩa là đang phục vụ người khác chuẩn bị cấy cầy, ngoái lại sau là bỏ dở việc. Quyết định này làm sáng tỏ điều trên. Từ bỏ gia đình không phải là một từ bỏ, vì nó mở ra một gia đình khác. Theo Chúa không loại trừ gia đình đầu tiên nhưng là vượt qua. Gia đình Thiên Chúa là gia đình có Thiên Chúa hiện diện, liên kết hết mọi người lại với nhau một cách chặt chẽ sâu xa hơn gia đình tự nhiên.
Tóm lại, nhân đức đầu tiên của trang Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống chỉ đẹp khi thực sự sống tự do. Chính tự do, Đức Giêsu “dứt khoát ” lên đường đi Giêrusalem nơi Người biết rằng mình sẽ chết. Giá trị của cuộc sống lớn lao hơn khi người ta sử dụng tự do để phục vụ sự sống cho người khác. Cần bước qua những thử thách trong đời, lằng nghe tiếng Chúa gọi và đáp trả. Lịch sử nhân loại chúng ta đang sống, người này liên đới với người kia. Thánh Phaolô khuyên chúng ta : “Ước chi tự do của anh em không phải là cái cớ để làm thoải mãn tính ích kỷ của anh em, trái lại, anh em hãy phục vụ mọi người trong tình yêu” (Gl 5,13).

Công Ðồng Vaticanô II quả quyết rằng “kẻ được Thiên Chúa Cha kêu gọi… theo ý định của ân sủng Ngài” (Lumen Gentium, số 40). Đúng thế, theo Chúa là ra khỏi ý định riêng tư, để đặt mình trong bàn tay và ý định nhiệm mầu của Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa là đặt mình trên đường theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con thưa với cả cuộc đời : “Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Chúa” (x. Dt 10,7).
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Armenia

Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Armenia

Chiều nay thứ Sáu 24-06-2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Armenia, mở đầu chuyến tông du 3 ngày tại quốc gia này. Máy bay của Đức Thánh Cha đã đáp xuống sân bay quốc tế tại Erevan vào lúc 15g giờ địa phương.

Đón Đức Thánh Cha tại sân bay có Tổng thống Cộng hoà Armenia Serzh Sargsyan; Thượng phụ Karekin II – Giáo chủ Giáo hội Tông truyền Armenia; Thượng phụ Giáo hội Công giáo Armenia Grégoire Pierre XX, cùng một số giới chức tôn giáo và dân sự khác. Hai thiếu nhi trong trang phục truyền thống của Armenia đã dâng bánh mì và muối cho Đức Thánh Cha.

Đây là chuyến tông du thứ mười bốn của Đức Thánh Cha Phanxicô bên ngoài Italia. Ngài đến Armenia như một người bạn, để tôn vinh lòng trung tín của các Kitô hữu của một dân tộc chịu tử đạo, “quốc gia Kitô giáo đầu tiên”, như khẩu hiệu của chuyến tông du đã nhấn mạnh.

Hoạt động đầu tiên của Đức Thánh Cha tại Armenia là cầu nguyện vào lúc 15g35 tại Nhà thờ chính toà Tông truyền ở Etchmiadzin với Thượng phụ Karekin II. Cùng tham dự buổi cầu nguyện này còn có khoảng 100 vị chức sắc khác.

Đức Thánh Cha và Đức Thượng phụ đã trao hôn bình an cho nhau và cùng cầu nguyện Thánh vịnh 122 tại bàn thờ.

Trong bài phát biểu sau khi cầu nguyện, Đức Thánh Cha dâng lời tạ ơn Chúa “đã thắp lên ánh sáng đức tin trong đất nước của ngài, đức tin đã đem lại cho Armenia một căn tính riêng và làm cho Armenia trở thành sứ giả của Chúa Kitô giữa các dân tộc”.

“Đối với Armenia, niềm tin vào Chúa Kitô không giống như chiếc áo mặc vào hay cởi ra tuỳ theo hoàn cảnh hay sự tiện lợi, nhưng là một phần thiết yếu của căn tính của mình, một ơn huệ vô cùng cao quý, được vui mừng đón nhận, được gìn giữ nhờ nỗ lực lớn lao và sự mạnh mẽ, thậm chí phải trả giá bằng chính mạng sống”.

Đức Thánh Cha cũng tạ ơn Chúa về “hành trình mà Giáo hội Công giáo và Giáo hội Tông truyền Armenia đã thực hiện qua đối thoại chân thành và huynh đệ, để đi đến chỗ chia sẻ hoàn toàn bàn tiệc Thánh Thể”.

Mặc dù đã có tiến bộ trong đại kết, nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhận thấy: “Buồn thay, thế giới của chúng ta lại ghi dấu bởi những chia rẽ và xung đột, cũng như những hình thức nghèo nàn về vật chất và tinh thần, với nạn bóc lột con người, không tha cả trẻ em và người già. Thế giới mong đợi nơi các Kitô hữu chứng từ về lòng kính trọng lẫn nhau và hợp tác huynh đệ, có thể bày tỏ cho mọi lương tâm quyền năng và sự thật của Chúa Kitô phục sinh”.

Kết thúc bài phát biểu, Đức Thánh Cha xin Chúa ban phúc lành cho mọi người dân Armenia và gìn giữ họ trong đức tin đã lãnh nhận từ tổ tiên mình: “Nguyện xin Thiên Chúa Toàn Năng, là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria Chí Thánh; Thánh Grêgôriô Người Khai sáng, là ‘cột trụ ánh sáng của Hội Thánh Armenia; và Thánh Grêgôriô Narek, Tiến sĩ Hội Thánh, chúc lành cho tất cả anh chị em và đất nước Armenia”.

Minh Đức

Kinh Phụng Vụ – CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN

Giáo đầu

Chủ sựLạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
Cộng đoàncho con cất tiếng ngợi khen Ngài.

Tv 94

ĐCHãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là núi đá độ trì ta. Ha-lê-lui-a.

1Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là núi đá độ trì ta. *
2Vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.

ĐCHãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là núi đá độ trì ta. Ha-lê-lui-a.

3Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả,
là đại vương trổi vượt chư thần,
4nắm trong tay bao vực sâu lòng đất,
giữ chủ quyền muôn ngọn núi vút cao. *
5Đại dương Chúa đã tạo thành là của Chúa,
lục địa do tay Người nhào nắn cũng thuộc về Người.

Phụng Vụ Thánh Lễ – Chúa Nhật Tuần XIII Mùa Thường Niên Năm C

Chúa Nhật Tuần XIII Mùa Thường Niên Năm C
Ca Nhập Lễ
Chúa là sức mạnh của dân Chúa, là thành trì cứu độ cho Đấng Người đã xức dầu tấn phong. Lạy Chúa, xin cứu độ dân Ngài. Trên gia nghiệp này, giáng muôn phúc cả; Dẫn dắt nâng niu đến muôn đời.
Lời Nguyện Nhập Lễ
Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, Chúa sẽ chẳng bỏ rơi bao giờ. Chúng con cầu xin…
BÀI ĐỌC I: 1 V 19, 16b. 19-21
“Êlisê đi theo Êlia”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Êlia rằng: “Êlisê, con ông Saphát, người Abel-Mêhula, ngươi hãy xức dầu phong y làm tiên tri thế ngươi”.
Êlia ra đi tìm gặp Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai. Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông. Lập tức ông bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: “Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài”. Êlia nói với ông: “Ngươi đi đi, rồi trở lại, ta có làm gì ngươi đâu?” Êlisê rời Êlia, rồi bắt một đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi đốt quay thịt cho dân ăn. Đoạn ông đi theo làm đầy tớ Êlia. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Đáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát.
4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn đời.

BÀI ĐỌC II: Gl 4, 31b – 5, 1. 13-18 (Hl 5, 1. 13-18)
“Anh em được kêu gọi để được tự do”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa.
Hỡi anh em, anh em được tự do, nhưng đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt; trái lại, anh em hãy lấy bác ái của Thánh Thần mà phục vụ lẫn nhau. Vì chưng, tất cả lề luật tóm lại trong lời này: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Nhưng nếu anh em cắn xé và phân thây nhau, anh em hãy coi chừng kẻo huỷ diệt nhau. Tôi nói điều này là: Anh em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thoả mãn theo đam mê xác thịt nữa. Vì đam mê xác thịt thì chống thần trí, và thần trí thì chống lại xác thịt; giữa đôi bên có sự chống đối nhau, khiến anh em không thi hành được những điều anh em mong muốn. Nhưng nếu anh em được thần trí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật nữa. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 9, 51-62
“Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?” Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến, không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Và các Ngài đi tới một làng khác.

Đang khi đi đường có kẻ thưa Người rằng: “Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy”. Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Người bảo một kẻ khác rằng: “Hãy theo Ta”. Người ấy thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”. Một người khác thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã”. Nhưng Chúa Giêsu đáp: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”. Đó là lời Chúa.

Lời Nguyện Tiến Lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi, chúng con hiến dâng những lễ vật này để tạ tội và ngợi khen Chúa; cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và dùng của lễ này mà thanh tẩy chúng con, hầu chúng con có thể dâng lên những tâm tình đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin…
Kinh Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Vì thế, cùng với ca đoàn các Thiên thần, chúng con ca ngợi Chúa và hân hoan tuyên xưng rằng: Thánh! Thánh! Thánh!
Ca Hiệp Lễ
Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa và chính Ngài đúng bữa cho ăn.
Lời Nguyện Hiệp Lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho chúng con rước Mình và Máu Con Chúa để đổi mới chúng con; xin cho chúng con được chắc chắn hưởng ơn cứu độ, nhờ mầu nhiệm cử hành trong thánh lễ này. Chúng con cầu xin…