Home Blog Page 483

Lòng sùng kính Đức Mẹ của thánh Bênađô

 

Về Đức Mẹ ngài viết:

– Ca tụng Đức Mẹ Tình thương: “Ôi Maria, Mẹ là Nữ Vương tình thương, có thể nào Mẹ chối từ không cấp cứu những người khổ thống được? Đối tượng của tình thương chính là những người xấu số. Mẹ là Trinh Vương thương xót, mà con đây là tội nhân bi thảm nhất, tất nhiên con phải là đối tượng đầu tiên, đối tượng lớn nhất của tình Mẹ thương”, con có quyền được Mẹ thương đến nhất, có quyền được Mẹ săn sóc ân cần nhất.- Vậy, “lạy Trinh Vương thương xót, xin  hiển trị trên chúng con”,  đoái thương đến chúng con, nhận lấy nhiệm vụ lo cho chúng con được sống đời đời.

Ngài thêm: “Đành rằng lời cầu nguyện nơi môi miệng tội nhân không có vẻ mĩ lệ mối dây hiệp nhất đức ái trang điểm cho; nhưng cũng vẫn có lợi ích, vì nó giúp cho linh hồn thoát ly tội lỗi”.

Và rằng: “Chúng ta tán dương Mẹ Khiêm nhu. Chúng ta ca tụng Mẹ trinh khiết, nhưng sự khốn nạn của bọn tội lỗi chúng ta lại cho chúng ta dễ lưu luyến và cảm khoái hơn với tình thương của Mẹ một cách thân thiết hơn, và kêu cầu mau mắn hơn”

Ngài lí luận rất hay: “Giáo hội gọi Maria là Nữ vương lân tuất là để quyết chắc với ta rằng Mẹ mở các kho tàng tình thương Chúa cho người nào Mẹ muốn, khi nào Mẹ muốn và cách nào Mẹ muốn, đến nỗi không 1 tội nhân nào dù tội lỗi đến đâu có thể hư mất khi Mẹ nhận phù giúp họ.

Ngài quả quyết: “Ai nhờ cầu xin Mẹ mà Mẹ không tiếp cứu, thì xin đừng ca tụng tình thương Mẹ nữa, đừng nói cả đến tên Mẹ nữa.

Ngài khuyến khích: “Bạn ơi, dầu là ai đi nữa, bạn lại chẳng biết rằng ở thế gian lúc nào bạn cũng bị xô dạy giữa những cơn giông tố của đại dương gầm sóng. Bạn không muốn bị sóng gió vùi giập ư ? Bạn hãy dán mắt nhìn lên Sao biển mà kêu gọi Mẹ Maria. Được Mẹ hướng dẫn, bạn không phải mệt mã trên đường. Được Mẹ đưa giúp bạn sẽ tới đích ngắm trông.

Trong 2 tập Vinh Quang Đức Mẹ do thánh Anphongsô viết, còn man vàn những lời trích của thánh Bênađô ca tụng Đức Mẹ…

Tóm tắt rằng:

“Khi nguy hiểm, khi nghi ngờ, khi khó khăn, hãy nhớ đến Đức Mẹ , gọi Tên Mẹ.

Đừng để Tên Mẹ xa rời môi miệng bạn.

Đừng để Tên Mẹ rời khỏi lòng bạn.

Hãy chắc chắn được Mẹ trợ giúp qua lời bạn cầu xin.

Hãy chăm chỉ bước theo chân Mẹ. Nếu được Mẹ dẫn đường, bạn sẽ không lạc.

Cầu xin Mẹ, bạn sẽ không thất vọng.

Nhớ đến Mẹ, bạn sẽ yên tâm không bị lừa dối.

Được Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không ngã.

Được Mẹ che chở, bạn sẽ không sợ.

Được Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ an lòng.

Được Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt đích mong chờ”.

Lòng sùng kính Đức Mẹ của thánh Anphongsô, Sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế

 

 

 *Lòng sùng kính Đức Mẹ của Anphongso  được nảy sinh và vun trồng ngay từ thời thơ ấu nhờ người mẹ tốt lành,  bà Donna Anna.   Khi nghĩ về mẹ mình,  cha Anphongso viết:

Tôi phải thú thật rằng : Nếu tôi sống tử tế suốt thời niên thiếu và được gìn giữ khỏi những sự xấu,  đó là hoàn toàn nhờ sự săn sóc của mẹ tôi“.  Ngài kể lại :”Mỗi sáng sau khi chúc lành cho các con,  mẹ tôi cùng các con qùy xuống cầu nguyện.  Chiều tối mẹ tôi tập họp các con lại quanh mẹ rồi dạy các chân lý đức tin,  đọc kinh Mân côi với các con và dạy cho các con cách tôn kính các thánh …”.

Có lần các bạn lối xóm rủ Alphonsô chơi đánh đáo.  Nhưng khi Anphongso được liên tiếp nhiều ván,  có bạn trong nhóm tức quá,  lên tiếng chửi thề;  Alphonsô liền ngưng chơi,  nói với bạn :”Chỉ vì thua mấy cắc bạc mà bạn buông lời xúc phạm đến Chúa sao ? Tôi xin trả lại bạn tất cả và không thèm chơi nữa“.  Về nhà chiều đó Alphonsô đã quì suốt mấy tiếng đồng hồ trước tượng Đức Mẹ để xin lỗi Mẹ.

 

*Khi quyết định từ giã thế trần,  Alphonsô chạy đến trước bàn thờ Đức Mẹ tại nhà thờ Naple,  chàng gỡ thanh gươm tượng trưng của giai cấp qúy tộc,  đặt lên bàn thờ.   Sau này hễ có dịp trở lại,  Alphonsô lại tìm đến đây để cầu nguyện với Đức Mẹ.   Ngài nói :”Chính nơi đây Đức Mẹ đã khiến tôi từ giã thế gian”.

 

Cha  lợi dụng hết khả năng của mình để trình bày về Mẹ.  Ngài nhận rằng :“Lòng yêu mến Đức Mẹ phải là sợi dây tình thương liên kết với Chúa Mẹ, với các linh hồn, với Giáo Hội và với mỗi người chúng ta”.

Ngài viết thêm tên Maria sau tên Anphongsô.

Vào các ngày Thứ Bảy ngài đều nói về Đức Mẹ.

Ngoài những bài giảng, Ngài vẽ khá nhiều ảnh Mẹ.

Ngài còn dành riêng những tuần 3 tuần 7 để giảng về Mẹ.

Ngài viết bộ sách “Vinh quang Đức Mẹ” thu tập nhiều lời ca tụng, nhiều tích truyện chứng minh quyền phép và tình thương của Đức Mẹ, để lôi kéo mọi người tin cậy kính mến Đức Mẹ, là Đấng ban ơn cứu rỗi cho người cậy trông. Trong bộ sách này ngài viết : “Con muốn được là người yêu mến Mẹ hơn hết mọi người,  chỉ trừ Chúa thôi. Sự ao ước này nếu có táo bạo thì cũng chỉ vì con yêu Mẹ,  mà nếu Mẹ không rất đáng yêu,  thì con đã không yêu Mẹ như thế”.

            Theo thánh nhân: “Hết mọi ơn thánh ở trong Chúa Giêsu như nguồn mạch: nhưng do ý định mầu nhiệm và thương xót của Chúa, không một ơn nào ban xuống cho loài người mà không có Mẹ cầu xin cho. Hơn nữa, Mẹ Maria là Mẹ đầy tình thương, Mẹ chỉ có một sứ mạng, một chức vụ là thương xót: đến nỗi những tội nhân khốn nạn nhất, tuyệt vọng nhất là những người đầu tiên được Mẹ cứu, Mẹ dấu yêu, miễn là họ đừng bỏ mất thiện chí cải tạo mà tin tưởng chạy đến với Mẹ”. Ngài kêu gọi tội nhân bằng lời tha thiết này: “Bạn hãy yêu mến Mẹ Maria! Hãy cầu xin Mẹ, thì bạn sẽ được cứu rỗi”.

Ngài quả quyết một cách chắc chắn rằng:

“Chúng ta được rỗi là do Mẹ cầu bầu.

“Tôi tớ Mẹ không ai có thể hư mất đời đời.

“Với Mẹ, ta không phải lo sợ gì: dù hoả ngục, dù tội lỗi, dù cả Đấng phán xét tối cao của ta là Chúa Giêsu”.

 

Cha Felice Verzella là bí thư của ngài ở Toà Giám Mục làm chứng rằng:

“Ngài luôn giữ một mẫu ảnh Mẹ chỉ bảo đàng lành bên mình.  Mỗi khi có người bàn chuyện linh hồn, ngài thường tặng mỗi người một mẫu ảnh để khuyến khích họ yêu mến Đức Mẹ“.        Ngài thường nói :”Đây là Đấng  đưa chúng ta lên thiên đàng,  là người giúp bạn trong lúc khốn khó.   Nếu không có Mẹ bạn sẽ ra sao ?”

Lúc nào cha Anphongso cũng cố lo lắng giữ ơn bền đỗ, ngài đã phân tích xem mình có dấu nào để bằng cứ vào đấy mà bền lòng đến cùng, thì người thấy rằng dấu nào cũng có điều kiện thiếu thốn, không đủ tin, và người kết luận rằng chỉ có một bảo đảm duy nhất cho ơn bền đỗ: sự cầu nguyện liên tiếp. Rồi, người lại băn khoăn và tự đặt câu hỏi: tôi sẽ cầu nguyện đến cùng được chăng? Liệu có ngày tôi sẽ sao nhãng hay bỏ rơi sự cầu nguyện chăng? Trước mối lo ngại mới này người lại chạy vào lòng Ðức Mẹ và nói cùng Ðức Mẹ, “Lạy Mẹ thân yêu, xin cứu con, xin cho con được nhớ đến và có lòng muốn cầu nguyện cùng Mẹ luôn: con biết rằng Mẹ nhân lành đến nỗi giả như vì lỗi con mà con bỏ việc cầu nguyện cùng Mẹ, Mẹ vẫn còn thúc bách con làm việc đó để khỏi thấy con hư mất”. 

“Hãy luôn luôn chạy đến cùng Ðức Mẹ”, đó là câu tóm tắt tất cả khoa thần học của vị Tiến sĩ Hội thánh hiển danh ấy, đấy là trung tâm điểm học thuyết tu đức của người vậy.

 

*Khi đến tuổi già, không còn đủ trí nhớ để nhớ mình đã lần hạt đọc kinh chưa, người vẫn hỏi thày dòng coi bệnh. Một hôm thày ấy nói với người: “Bao nhiêu tràng hạt cha đã đọc dư ra hôm nay, con xin cha nhường tất cả cho con”. Ðấng thánh liền tỏ vẻ mặt nghiêm trang và nói, “Thày đừng đùa, thày không biết rằng phần rỗi đời đời của tôi là nhờ ở tràng hạt Mân Côi ư?”

 

*Cuối đời ngài gặp nhiều hiểu lầm, sức khoẻ yếu kém, hay bị bệnh, bị nhức đầu, thường phải đeo khăn ướt trên trán cho đỡ nhức để tiếp tục làm việc. Ngài bị bịnh sưng khớp và bị què, tai bị điếc và gần như bị mù. Ngài cũng có bất mãn và bị cám dỗ, nhưng nhờ có lòng kính mến Đức Mẹ thiết tha như ngài tỏ ra trong cuốn sách “Vinh quang Đức Mẹ”, nên dù thử thách kéo đến, ngài cũng được bình an, vui vẻ và chết lành.

 

Ngài qua đời ngày 1 tháng 8 năm 1787, lúc được 91 tuổi.

52 năm sau, Đức Giáo hoàng Gregory 16 đưa ngài lên bậc thánh, và năm 1871, Đức Piô 9, phong ngài làm Tiến sĩ Giáo hội.

Cách đọc kinh Mân côi kính Đức Mẹ

 

 

 

Kinh Mân côi là kinh cầu nguyện theo Kinh thánh. Ta nhắc nhớ lại những sự việc cao cả đã xảy ra trong cuộc đời Đức Mẹ và cuộc đời Chúa Giêsu khi sống ở trần gian.

Đọc kinh Mân côi để tỏ lòng kính mến Đức Mẹ và Chúa Giêsu con của Người.

Đức Mẹ rất thích nghe con cái đọc kinh Mân côi, vì họ nhắc cho Mẹ những ơn phúc Chúa ban cho Người.

Đọc với cả tâm trí theo lời kinh, sẽ thấy hứng thú, khỏi nhàm chán. Những người yêu nhau không chán nghe lời “yêu”. 

 

Nên có một tràng hạt, nếu không có tràng hạt, thì đếm bằng đốt ngón tay.

 

Nếu có thể, nên theo thể thức như sau: (coi dưới phần Kinh Tối)

  1. Kinh Chúa Thánh Thần (Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần…), kinh Ăn năn tội (Lạy Chúa tôi, Chúa là Đầng trọn tốt trọn lành vô cùng…)
  2. Xướng ngắm: Ví dụ: 5 sự Vui, thứ nhất thì ngắm, thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được ở khiêm nhường.
  3. Đọc 1 kinh Lạy Cha (Lạy Cha chúng con ở trên trời…) đọc 10 kinh Kính mừng (Kính mừng Maria đầy ơn phúc…), đọc 1 kinh Sáng Danh (Sáng Danh Đức Chúa Cha và…)

Lời cầu Đức Mẹ dạy tại Fatima: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa hơn”.

  1. Xướng ngắm thứ 2, và đọc như số 3 trên.
  2. Sau 5 chục kinh, đọc kinh Lạy nữ vương (Lạy Nữ vương Mẹ nhân lành…)

 

Nếu không thuận tiện để đọc cả 5 chục kinh, có thể đọc 1,2 chục, hoặc chỉ đọc ít nhất kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng Danh…

Kinh Kính mừng dễ nhớ, dễ đọc, được  chia làm 2 phần:

Phần trước ca tụng Ðức Mẹ, nhắc lại những ơn Chúa ban cho Ðức Mẹ : – Đầy ơn phúc, – Đức Chúa Trời ở cùng Bà, – Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, – Và Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ.        Phần sau cầu xin Đức Mẹ Chúa Trời cao cả, nhân lành và quyền phép cho mình bây giờ và trong giờ chết.

 

Kinh Kính mừng khi được đọc lên cách chân thành, sốt sáng sẽ kéo xuống muôn ơn – cho mình: ơn sửa nết xấu, ơn trở nên hoàn thiện…

– Cho gia đình được bình an hòa thuận,

– Cho xã hội, thế giới thoát chiến tranh, và được bình an.

Khi nay, được những ơn cần thiết. Trong giờ chết, được chết lành và được rỗi linh hồn. Rỗi linh hồn là điều vô cùng quan trọng, vì theo lời Chúa Giêsu: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có lợi gì” (Mt 16, 26).

Ơn ích như vậy, tại sao ta không đọc, không dạy con cái đọc?

Khi ta đọc kinh Kính mừng với lòng yêu mến, Ðức Mẹ sẽ giữ lời hứa, ban xuống muôn ơn…

 

20 Mầu nhiệm kinh Mân côi

 

5 mầu nhiệm mùa Vui:

Thứ nhất thì ngắm, Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được ở khiêm nhường.

Thứ hai, Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người.

Thứ ba, Đức Bà sinh Chúa Giêsu nơi hang đá, ta hãy xin cho được lòng khó khăn.

Thứ bốn, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.

Thứ năm, Đức Bà tìm được Chúa Giêsu trong đền thánh, ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn.

 

5 mầu nhiệm sự sáng (do ĐTC Gioan Phaolô 2 thêm 10/2002)

Thứ nhất thì ngắm: Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa.

Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu dự tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được vững tin vào quyền năng của Ngài.

Thứ ba thì ngắm : Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối. Ta hãy xin cho được hoán cải và đón nhận Tin Mừng

Thứ bốn thì ngắm : Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành Lời Chúa.

Thứ năm thì ngắm : Đức Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Ta hãy xin cho được siêng năng dự lễ và rước Mình Máu Thánh Người.

 

5 mầu nhiệm mùa Thương:

Thứ nhất thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu, ta hãy xin cho được ăn năn tội nên.

Thứ hai thì ngắm, Đức Chúa Giêsu chịu đánh đòn, ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng.

Thứ ba thì ngắm, Đức Chúa Giêsu chịu đội mũ gai, ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng.

Thứ bốn thì ngắm, Đức Chúa Giêsu vác cây thánh giá, ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa.

Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá, ta hãy xin cho được đóng đanh tính xác thịt vào thánh giá Chúa.

 

5 mầu nhiệm mùa Mừng:

Thứ nhất thì ngắm, Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn.

Thứ hai thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.

Thứ ba thì ngắm, Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, ta hãy xin cho được lòng đầy dẫy mọi ơn Đức Chúa Thánh Thần.

Thứ bốn thì ngắm, Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời, ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ.

Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời, ta hãy xin Đức Mẹ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng.

 

15 Ơn ích Ðức Mẹ hứa ban cho những ai siêng lần hạt Mân côi 

(Đức Mẹ đã hứa qua thánh Alanô Dòng Đaminh)

  1. Mẹ sẽ ban một ơn đặc biệt, cho những ai sốt sắng đọc kinh.
    2. Mẹ sẽ che chở đỡ nâng, và còn ban xuống ơn thiêng dạt dào.
    3. Kinh Mân Côi  diệt trừ thói xấu, và diệt tan bè rối, tội nhơ.
  2. Đem Tình thương Chúa vô bờ, diệt trừ lòng trí tham ô của đời.
  3. Ai trung thành và chăm chú đọc, sẽ không phải hư mất đời đời.
  4. Ai chăm chú đọc và suy gẫm, sẽ (1. Không mắc tai nạn rủi ro, 2. Thoát cơn thịnh nộ Chúa Cha, 3. Và sẽ không phải lìa đời bất ưng,  4. Tội nhân sẽ được ơn thống hối,    5. Được vững trong ơn thánh trọn đời).
  5. Trung thành lần hạt Mân côi, được lãnh Bí tích cuối đời chẳng sai.
  6. Ai lần hạt Mân côi kính Mẹ, khi sống, chết đều được muôn ơn. Chết rồi hưởng phước thiên cung, và cùng các thánh muôn chung sáng ngời.
  7. Mẹ sẽ mau cứu người lần hạt, khỏi Luyện ngục thanh tẩy đớn đau.
  8. Sẽ ban phần thưởng lớn lao, ở  trên Thiên quốc con nào siêng năng…
  9. Ai tôn sùng Mân côi phép thánh, sẽ được ban đầy dẫy ơn lành.
  10. Ai truyền bá Mân côi kính Mẹ, sẽ được Mẹ cứu lúc hiểm nguy.
  11. Hội viên Hội Mân côi sống chết, được làm em các thánh trên trời.
  12. Ai lần hạt Mân côi sốt sắng, chắc chắn là con Mẹ nhân từ, làm em của Chúa Giêsu, muôn đời hạnh phúc, muôn thu vui mừng.
  13. Quí mến lần hạt Mân côi, chính là dấu chắc muôn đời hiển vinh.

 

           

“Các con đừng bao giờ chểnh mảng việc đọc kinh Mân côi. Đây là kinh Mẹ yêu quí đặc biệt, và từ trời cao Mẹ đã xuống xin các con điều đó. Chính Mẹ đã  dậy các con đọc KMC cách sốt sắng khi tay Mẹ lần những hạt MC, và cùng cầu nguyện với con nhỏ của Mẹ là Benadetta ở hang Massabielle, Lộ đức”.

Khi đọc KMC, các con hãy mời Mẹ cầu nguyện với các con, liên kết với các con, nhờ thế KMC trở nên võ khí hùng mạnh chống lại satan ma quỉ” (Sách Cùng Các Linh Mục Con Cưng Của Mẹ  số 148)

Hạt muối

Hạt muối

Hạt Muối thu mình co quắp lại, nhất định không để biển hòa tan. Nó muốn lên bờ, sống trong vuông muối. Nó vẫn ngạo nghễ, to cứng và nhìn chúng bạn đầy khinh bỉ.  Nó nghĩ, đời nó bây giờ sẽ sung sướng nên không cần hợp tác với ai hay phải làm gì. Nó kiêu hãnh đến thế.

Thu hoạch, bác nông dân gạt nó ra ngoài, xếp vào loại phế phẩm, còn những hạt muối tinh trắng kia được giữ cẩn thận rồi đóng vào bao sạch đẹp … Lần đầu tiên nó thấy mình bị xúc phạm, bị bỏ rơi. Bạn bè chung quanh nó đã đi hết, bây giờ chỉ còn mình nó, nó thấy mình cô đơn.

Bây giờ, nó đã trở nên sỏi đá, mãi sống cô đơn, nhìn những hạt muối khác nó thèm khát cuộc sống như  thế, được hòa mình với dòng chảy,  nhưng bây giờ đã quá muộn …

NÓ ví mình như hạt muối, đã rất nhiều lần nó tự khép mình lại, không muốn cởi mở, cũng chính vì nó kiêu hãnh nên nó không muốn tan ra để đem niềm vui, sức sống cho chính mình và cho người khác. Nó thấy mình cô đơn.

Chính Chúa đã đánh thức suy nghĩ của nó. Đời nó đã được vị muối tình yêu, tha thứ, lòng nhân ái của Chúa dưỡng nuôi. Nó đã nhận được rất nhiều hồng ân nhưng không từ Thiên Chúa để nó có cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay thì không lẽ gì nó không trao tình yêu cuộc sống mình cho người khác.

Nghĩ được điều này nó cảm thấy phấn khởi, bình an và hạnh phúc. Nó bắt đầu đặt ra cho mình những quyết tâm: Nó phải tan ra giữa bao nhiêu hạt muối khác, phải chấp nhận hy sinh, mất mát, thiệt thòi, bỏ đi cái tôi nhỏ bé của mình để cùng sống với mọi người bằng tình yêu thương. Nó bắt đầu yêu như Chúa đã yêu, bắt đầu ướp cho đời thêm hương vị, thêm phong phú. Nó thấy mình hạnh phúc.

Nhưng hành trình làm muối của nó có lúc phải dừng lại, phải suy nghĩ, phải xót xa lẫn đau đớn khi chạm phải nhiều vật cứng nhiều khó khăn khác. Có lúc nó nghẹt thở, lúc này, nó muốn Giêsu cất đi tất cả. Nhưng khi được gần bên Giêsu, nó lại được chính chất mặn tình yêu Chúa ướp mặn để nó có thêm động lực tiếp tục hành trình làm muối của mình. Giờ đây, nó mới cảm nhận niềm hạnh phúc thật sự khi được phục vụ, thật là may khi nó biết quay trở về, nếu không, nó cũng như hạt muối trên, khi đã trở thành sỏi đá, suốt đời phải hối hận.

Kinh Mân côi: Gốc tích và 15 Ơn ích

Kinh Mân côi:

1- Gốc tích và 15 Ơn ích

————–

 

1*Phát nguồn

Kinh Mân côi được khởi đầu  từ việc Chúa Kitô nhập thể trong lòng Đức Trinh nữ Maria.

-Vị đầu tiên đọc  kinh Kính mừng là Tổng thần Gabriel. (Tin mừng theo Luca 1,28) Sứ thần vào nhà trinh nữ và chào, “Mừng vui lên, Đấng đầy ơn phúc, Chúa ở cùng Ngài”. Ngày nay ta đọc: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà.

-Bà thánh Isave thêm (Lc 1,42) “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. Chúng ta đọc: Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ.

-Chính Bà thánh Isave cũng xưng hô Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Lc 1,43) “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi thế này?”.  Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…

 

2*Gốc tích

Thánh Ðaminh (Đôminicô 1170-1221) được mời đi giảng cho bè lạc đạo Albigensê, nước Pháp, bè này ở vào thời Trung cổ, li khai với Hội thánh, chủ trương vũ trụ có thần thiện và thần ác điều khiển, còn Chúa Kitô thì hão huyền không có thật. Qua nhiều cố gắng, ngài không lôi kéo được ai trở về cùng Hội thánh.

Ngài chạy đến cùng Ðức Trinh Nữ Maria, van nài Mẹ nhận lời cứu giúp.

Từ thành Toulouse, Ngài vào tận rừng sâu, ở đó ba ngày đêm ăn chay cầu nguyện không ngừng.

Khi thánh nhân được xuất thần, Mẹ Thiên Chúa hiện ra huy hoàng tuyệt mỹ, có ba nữ hoàng đi theo. Mỗi nữ hoàng lại có 50 trinh nữ theo hầu.

Nữ hoàng thứ nhất, cũng như các trinh nữ theo hầu, mặc y phục trắng. Nữ hoàng thứ hai y phục đỏ. Nữ hoàng thứ ba mặc áo vàng sáng chói. Mẹ Thiên Chúa  phán:

“Ba nữ hoàng tiêu biểu cho ba mầu nhiệm Vui Thương Mừng. Năm mươi trinh nữ theo hầu là 50 kinh Kính Mừng. Màu trắng nhắc lại các mầu nhiệm Vui, màu đỏ nhắc các màu nhiệm Thương, và màu vàng nhắc các mầu nhiệm Mừng”.

Các mầu nhiệm Nhập thể, Giáng sinh, Ðời sống, Khổ nạn, Sống lại, Lên trời của Con Mẹ đều chứa đựng trong kinh Kính Mừng và kinh Lạy Cha.

Ðó chính là Tràng Chuỗi Mân Côi, nghĩa là Triều Thiên trong đó Mẹ tìm thấy trọn niềm vui mừng. Con hãy truyền bá khắp nơi kinh này, các người lạc giáo sẽ trở lại, và các tín hữu sẽ vững tin, sẽ được phần rỗi muôn đời”.

 

Ðược phấn khởi, thánh Ðaminh vội trở về thành Tulu, đi ngay vào nhà thờ.

Theo như lời truyền khẩu khi đó chuông tự dộng vang lên inh ỏi. Giáo dân bỡ ngỡ nghe chuông đánh vào giờ khác thường, ồ ạt kéo nhau đến nhà thờ.

Thánh Ðaminh lên diễn đàn nói đến phép công thẳng của Thiên Chúa ngày phán xét.

Ðể tránh sự chí công đó, chỉ có phuơng thế chắc chắn là cầu khẩn với Mẹ Maria nhân từ và quyền phép.

Thánh nhân giải thích Kinh Mân Côi và đọc to. Mọi người hưởng ứng lần hạt Mân Côi.

Hiệu năng của việc tôn sùng nầy thật lạ lùng: Trên một trăm ngàn người lạc giáo qui chánh, vô số tội nhân trở về trong một thời gian ngắn ngủi.

 

 

*Mười lăm đặc ân kinh Mân côi

Đức Mẹ đã long trọng tuyên bố ban 15 ơn (đặc ân) cho những ai siêng năng lần hạt Mân côi trong khi Mẹ hiện ra với Thánh Alano O.P. Sự kiện này đã được Tòa thánh công nhận.

  1. Mẹ sẽ ban một ơn đặc biệt quí hóa cho kẻ kiên tâm, sốt sáng lần hạt Mân côi kính Mẹ.
  2. Mẹ sẽ bênh vực che chở cách riêng những người sốt sáng lần hạt Mân côi kính Mẹ. Ngoài ra Mẹ sẽ ban cho họ nhiều ơn thánh đặc biệt.
  3. Tràng hạt Mân côi sẽ biến thành chiến cụ tinh nhuệ để chiến đấu với hỏa ngục, sẽ tiêu diệt mọi tính mê nết xấu, sẽ tấy uế mọi vết nhơ tội lỗi, sẽ tiêu trừ bè rối.
  4. Tràng hạt Mân côi sẽ tô điểm vẻ đẹp siêu nhiên của các nhân đức và các việc lành, sẽ đem lại cho các linh hồn lòng thương yêu, nhân hậu của Thiên Chúa, sẽ diệt trừ lòng tham lam, ham hố, yêu của phù vân ở đời, để trở về yêu mến Thiên Chúa, tìm cầu và khao khát những của vĩnh viễn, bất diệt. Biết bao linh hồn đã được thánh hóa do thần lực kinh Mân côi.
  5. Ai trung thành, sốt sắng đọc kinh Mân côi kính Mẹ, sẽ không phải hư mất.
  6. Ai sốt sáng đọc và suy gẫm mầu nhiệm kinh Mân côi sẽ:
  7. Không mắc phải tai nạn,
  8. Được thoát cơn thịnh nộ của Chúa,
  9. Không phải chết bất ưng,
  10. Nếu là tội nhân sẽ đọc ơn sám hối,
  11. Được bền vững trong ơn nghĩa Chúa và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.
  12. Những ai trung thành lần hạt Mân côi sẽ không phải chết trước khi chưa được chịu các phép.
  13. Mẹ muốn những ai siêng năng lần hạt kính Mẹ, khi sống khi chết đều được dư dật ơn thánh và được chung hưởng công nghiệp cùng các thánh.
  14. Mẹ sẽ mau cứu vớt những linh hồn năng lần hạt Mân côi ra khỏi luyện ngục.
  15. Mẹ sẽ ban cho những ai trung thành lần hạt Mân côi phần thưởng lớn lao trên Thiên đàng.
  16. Tôn sùng phép Mân côi, sẽ được mọi ơn lành.
  17. Những ai tuyên truyền phép Mân côi kính Mẹ, sẽ được nâng đỡ trong lúc gian nan thiếu thốn.
  18. Mẹ đã xin con Mẹ cho những đoàn viên Hội Mân côi, sống chết đều được vinh dự làm anh em với các thánh Thiên quốc.
  19. Những người siêng lần hạt Mân côi đều là con riêng Mẹ, em Chúa Giêsu Con yêu dấu của Mẹ.
  20. Quí mến lần hạt Mân côi là dấu chắc sẽ được cứu rỗi.

(Nguyễn tri Ân, Hội Mân côi, tr. 35)

 

*Chứng về quyền phép cao sang của Ðức Mẹ.

Thánh Ðaminh, ngày bắt đầu truyền bá phép lần hạt Mân côi trong nước Pháp, bị nhiều người phản đối một cách mãnh liệt.  Họ cho là những kinh ấy chỉ dành riêng cho đàn bà con gái.  Nhiều người tìm cách phá đổ.  Ở Carcassô cũng có một người ra mặt phản đối ông thánh.  Chẳng may anh ta bị quỉ ám, anh ta xông xáo mọi nơi đánh đấm mọi người, suốt ngày tru trếu lăn lộn.

Người ta đem hắn đến cùng thánh Ðaminh, xin người trừ quỉ.  Thánh nhân được dịp để làm sáng danh Ðức Mẹ, người lấy tên Thiên Chúa mà hỏi quỉ rằng: “Trên trời, đừng kể Thiên Chúa Ba Ngôi, còn đấng nào mày sợ hãi hơn cả”.

Quỉ liền tru trếu van lạy xin ông thánh: “Người muốn biết thì tôi xin thưa cho mình người, chứ đừng bắt tôi xưng hô trước mặt công chúng, vì nguy khốn cho chúng tôi lắm”.

Thánh Ðaminh quỳ xuống nguyện rằng: “Lạy Mẹ, Mẹ truyền cho thần dữ này xưng ra điều con hỏi, để mọi người được biết”.

Thần dữ lại xin người rằng: “Chúng tôi xin người đừng bắt buộc chúng tôi nữa.  Chúng tôi chẳng nói người cũng đã biết; vả lại đã có thiên thần sẽ bảo người, chúng tôi chỉ là những kẻ dối trá”.

Thánh Ðaminh lại quỳ xuống cầu nguyện.  Bỗng thấy Ðức Mẹ hiện xuống.

Thần dữ khiếp kinh kêu la: “Ớ thù địch, sao đến đây bắt chúng tôi xưng ra những điều làm nguykhốn chúng tôi”.  Rồi thần dữ lại la to hơn: “Ớ mọi người, hãy nghe lời này: Ðức Mẹ rất thánh là Mẹ Thiên Chúa đủ quyền thế giữ gìn mọi người khỏi lửa hỏa ngục.  Ai hết lòng sùng kính Người thì thoát khỏi tay chúng tôi.  Nếu chẳng có Người, thì nhiều người đã phải hư đi.  Người yêu thương và phù hộ cho những người siêng năng lần hạt Mân côi”.

Nói đoạn, thần dữ ra khỏi người ấy.  Người ta thấy thần dữ xưng hô quyền thế Ðức Mẹ thì thêm lòng cậy trông kính mến Người, và siêng năng lần hạt hơn.

(Sách Tháng Đức Bà, Hiện tại xb, 1969, ngày mồng 6)

 

*Chứng nhân thời nay:

Linh mục Gabriel Amorth Trưởng ban Trừ quỉ của Tòa thánh Vatican (2010) viết:

Bí quyết làm cho lời cầu nguyện này nên rất hiệu quả, vì kinh Mân côi vừa là lời cầu nguyện vừa là lời suy gẫm. Kinh Kính mừng thưa lên với Chúa Cha, với Đức Trinh nữ, với Chúa Ba ngôi, và là sự suy niệm tập trung về Chúa Kitô”.

 

“Khi ta đọc: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ cói tội khi nay và trong giờ lâm tử.”Amen., Đức Mẹ đến ngay lập tức bên ta và cầu nguyện với ta. Mẹ không đến một mình, nhưng đem theo các Thiên thần, không phải một hay hai Thiên thần, nhưng cả đạo binh Thiên thần, vì Mẹ là Nữ vương Các Thiên thần. Mẹ đến với Chúa Giêsu, vì Mẹ và Con luôn liên kết không thể chia lìa. Chúa Giêsu lại đến với Chúa Ba ngôi, vì Chúa Giêsu không thể chia cách Chúa Ba ngôi.
“Khi bạn đọc kinh Mân côi, hay ít ra đọc một kinh Kính mừng, bạn lãnh nhận muôn ơn.

 

Thằng quỉ cha Gabriel đuổi ra cũng nói thêm:

Kinh Kính mừng giống như cái búa đập vàp đầu tao. Nếu người Công giáo biết sức mạnh của kinh Kính mừng là thế nào, thì nước chúng tao sẽ bị tận diệt.

Bất cứ ai chạy đến với Bà Maria, đọc kinh Mân côi, thì quỉ Satan không thể đụng đến kẻ ấy được” .

“Kẻ nào thật lòng cầu nguyện bằng kinh Mân côi cho người khác, thì rất được chúc phúc, được che chở và được sức mạnh trong lời kinh ấy”.

SỰ KIỆN ĐỨC MẸ LAVANG, VIỆT NAM

SỰ KIỆN ĐỨC MẸ LAVANG, VIỆT NAM

Dưới triều vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, con vua Quang Trung), nhà vua bách hại đạo Công Gìáo rất gắt gao, nên các nhà truyền giáo và giáo dân phải trốn lên rừng sâu núi thẳm để giữ đạo.

Nhắc đến “giáo dân phải trốn lên rừng sâu núi thẳm để ẩn trốn và giữ đạo”, chúng ta ai cũng biết: Ngày 17-8-1798 vua Cảnh Thịnh ban hành một chiếu chỉ cấm đạo rất gắt gao, một số các tín hữu ở gần đồi Cổ Vưu, Dinh Cát, Quảng Trị, phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại khu rừng có cây “lá vằng”. Nơi này là chốn rừng thiêng nước độc; lại thêm hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu ăn, bệnh tật, sợ hãi quan quân lùng bắt, thú dữ ăn thịt. Các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Thiên Chúa vàĐức Mẹ. Họ thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.

Một hôm đang khi cùng nhau lần chuỗi Mân Côikính Đức Mẹ, bỗng nhiên họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo choàng rộng, tay bồng Chúa Giêsu Hài Đồng, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra ngay là Đức Mẹ Maria. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân vui lòng chịu khó vì đạo. Mẹ bảo họ hái một loại lá cây (lá vằng) có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ che chở chúng con trong cơn hoạn nạn”…

Sau cơn bách hại, các tín hữu cùng các giới chức địa phương đã dựng một ngôi đền khiêm tốn tại đây để tạ ơn và tôn kính Đức Mẹ. Rồi họ thường tới đây lấy “lá vằng” về sắc thành thuốc uống khi mắc bệnh hiểm nghèo. Vì thế một vài thầy lang thuốc Bắc đã sắc “lá vằng” làm thành cao để bán cho những ai cần đến.

Từ đó nơi núi đồi Cổ Vưu, Dinh Cát, Quảng Trị với rừng cây “lá vằng” xanh tươi đã trở nên Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang (La Vang đọc theo tếng Pháp) của toàn thể Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Rồi, thể theo sự thỉnh cầu của HĐGMVN ngày 13-4-1961 họp tại Huế, ĐGH Gioan XXIII ban hành sắc lệnh nâng ngôi Đền Thánh Đức Mẹ La Vang khiêm tốn đó lên hàng Tiểu Vương Cung Thánh Đường. Sắc lệnh được ban hành ngày 22-8-1961 tại Roma, cạnh Đền thờ thánh Phêrô, có Ấn Ngư Phủ.

Thừa lệnh ĐGH Gioan XXIII, ký thay: HY Quốc Vụ Khanh Angelo Dell Acqua.

(Trích tài liệu từ TTGM Huế. Bài viết đầu tiên về sự kiện trên do một linh mục thừa sai người Pháp (M.E.P.) viết bằng tiếng Pháp, mà tiếng Pháp không có chữ “á, ằ”, nên họ viết theo âm “La Vang”. Từ đó người Việt chúng ta cũng quen gọi “La Vang” luôn.”

Khoảng lặng

Một buổi sáng, tôi thức dậy với một tâm trạng thật nặng nề và chán nản, cuộc sống dường như chẳng dành cho tôi chút ưu ái nào. Sao tôi cứ phải gặp hết điều không may này đến điều không may khác. Tôi mệt mỏi lê từng bước nặng nề đến trạm xe buýt với những suy nghĩ đó và không buồn để ý đến mọi thứ xung quanh đang dần sôi động lên cùng những tia nắng đầu tiên trong ngày.

Trên xe buýt, tôi đưa mắt nhìn qua băng ghế đối diện. Một cô bé có gương mặt xinh xắn và ánh mắt sáng ngời khẽ gật đầu chào tôi với nụ cười rạng rỡ. Ở cô bé toát lên một điều gì đó kiến bất cứ ai cũng đều bị cuốn hút. Cô bé luôn chào mọi người một cách thân thiện. Chợt tôi thấy lòng ganh tị và thầm ước giá như mình được cũng vui vẻ được như cô bé ấy.

Khi xe đến trạm cuối cùng, mọi người nhanh chân bước xuống, chỉ riêng cô bé lê từng bước. Tôi bất giác nhìn lại … và bàng hoàng nhận ra, cô bé đang phải di chuyển rất khó nhọc bằng đôi nạng gỗ. Nhưng dường như cô bé không hề quan tâm đến điều đó. Khi đi ngang qua tôi, cô ngước lên chào tôi mỉm cười vui vẻ. Tôi không thể không nhớ đến nụ cười rạng rỡ và hồn nhiên ấy.

Sau một ngày làm việc căng thẳng, tôi tranh thủ ghé vào tiệm tạp hóa để mua thực phẩm, một cậu bé chừng mười bốn tuổi đang giúp mẹ bán hàng. Trông cậu thật đáng yêu với khuôn mặt bầu bĩnh, vầng trán cao thông minh lanh lợi. Cậu nghiêng đầu mỉm cười khi trao cho tôi túi hàng đã được gói buộc chặt. Trước khi bước ra, tôi âu yếm xoa đầu và hỏi tên. Cậu bé chỉ lắc đầu nguầy nguậy rôi đưa mắt nhìn mẹ như muốn nói điều gì.

– Cháu nó không nói được cô ạ…

– Người mẹ hạ giọng trả lời thay con.

Khi băng qua đường tôi gặp một cậu bé có đôi mắt màu đen tuyệt đẹp, đang đứng khép mình nơi góc tường, mắt chăm chú dõi theo những đứa trẻ khác đừa trên hè phố, rồi khúc khích cười theo. Tôi đến bên cạnh và hỏi:

-Sao cháu không cùng chơi với các bạn?

Cậu bé không trả lời, đôi mắt vẫn hướng về phía trước. Tôi chợt nhận ra cậu không thể nghe được lời tôi nói…

Tôi thật diễm phúc vì được cuộc sống ban tặng một cơ thể lành lăn và khỏe mạnh.

Với đôi chân mạnh mẽ, tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào tôi muốn…

Với đôi mắt trong sáng, tôi có thể ngắm nhìn những người thân yêu và cuộc sống tươi đẹp xung quanh…

Với đôi tai rộng mở, tôi có thể lắng nghe những âm thanh tuyệt vời của cuộc đời…

Với đôi môi luôn nở nụ cười rạng rỡ, tôi hạnh phúc biết bao khi có thể nói những lời yêu thương dành cho người thân, bạn bè và sẻ chia với họ những trăn trở, vui buồn của cuộc sống…

Với tất cả những điều đó, tôi có thể vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Tôi đã có tất cả.

Vì thế tôi sẽ sống thật xứng đáng vơi những điều may mắn mà cuộc sống đã ban tặng.

Trong hành trình đầy thử thách của cuộc đời, tôi và các bạn, tất cả chúng ta đều luôn phải đối mặt với những khó khăn. Hãy sẵn sàng đón nhận những gì cuộc sống mang đến và cố gắng vượt qua mọi thử thách. Hãy tin yêu và đón nhận cuộc sống này bằng tâm hồn lạc quan và niềm tin mãnh liệt như những cô bé, cậu bé đáng yêu kia.

Và hôm nay, những cô bé, cậu bé ấy đã cho tôi một bài học về giá trị bản thân và ý nghĩ cuộc sống mà tôi đã may mắn có được.

Bài học đầu tiên để làm Người

 

Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học liền học thạc sĩ, rồi lại học tiến sĩ, sau nhiều năm đèn sách cuối cùng cũng đã hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui.

Một hôm người đệ tử này trở về, thưa với Đại sư. Thưa thầy nay con đã có học vị tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa? Ngài Tinh Vân bảo: Học làm người, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

Thứ nhất: HỌC NHẬN LỖI.

Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.

Thứ hai: HỌC NHU HÒA.

Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập.

Thứ ba: HỌC NHẪN NHỤC.

Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.

Thứ tư: HỌC THẤU HIỂU.

Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?

Thứ năm: HỌC BUÔNG BỎ.

Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được!

Thứ sáu: HỌC CẢM ĐỘNG.

Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.

Thứ bảy: HỌC SINH TỒN.

Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.

« Chỉ có một điều cần thiết »

 

I. LỜI CHÚA: Lc 10, 38-42

38 Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà.

39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay! “

41 Chúa đáp: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!42 Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”

II. SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, được đọc trong ngày lễ nhớ thánh nữ Mác-ta, rất quen thuộc với chúng ta ; quen thuộc, nhưng luôn thu hút, vì hình ảnh đầy ý nghĩa của hai người phụ nữ hiện diện chung quanh Đức Giêsu. Hình ảnh thật năng động của cô Mác-ta và hình ảnh, có thể nói, thật bất động của cô Maria.

Câu chuyện được đặt ở giữa dụ ngôn « Người Samari tốt lành » và sự kiện Đức Giêsu cầu nguyện và dạy các môn đệ cầu nguyện. Nếu dụ ngôn Người Samari mời gọi thực hành : « hãy đi và anh, anh cũng hãy làm như thế » (10, 37), câu chuyện ở làng Bêtania đặt « việc làm » trong một chiều kích sâu xa hơn.

Có một « việc làm » khác, và việc làm này không đòi phải làm gì cả, chỉ ngồi đó nghe Đức Giêsu nói thôi. Cầu nguyện không phải là việc làm, theo nghĩa lao động, nhưng còn hơn cả việc làm. Và như chúng ta có kinh nghiệm, cầu nguyện là một « công trình » của Chúa và của chúng ta. Như chính Đức Giêsu nói : « công trình của Thiên Chúa là anh em tin nơi Đấng Ngài sai đến » (Ga 6, 29).

Lao mình vào những công việc phục vụ người khác là điều tốt, nhưng vẫn chưa đủ, còn một điều khác nữa nền tảng hơn, đó là chúng ta làm việc, phục vụ trong tâm trạng nội tâm nào. Và để có được sự bình an và niềm vui trong hành trình đi theo Đức Ki-tô, ngang qua ơn gọi được ban cho chúng ta, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện trong những lúc dành riêng và sống tâm tình cầu nguyện trong mọi sự, nghĩa là giữ tương quan mật thiết với Chúa.

1. Niềm vui đón tiếp (c. 38)

« Khi Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường », từ Galilê đi Giêrusalem. Khi bắt đầu cuộc hành trình, Đức Giêsu nói những lời thật triệt để (Lc 9, 60. 62). Trong viễn tượng của ơn gọi tu trì, những lời này thường được hiểu như là phải đoạt tuyệt hay ít nhất là « cách li » với gia đình, với bạn bè và với những người thân yêu.

Tuy nhiên, nhìn ngắm Đức Giêsu trên đường đi Giêrusalem với viễn tượng của mầu nhiệm Vượt Qua, chúng ta sẽ nhận ra rằng không hoàn toàn như vậy : « Đức Giêsu đi vào một làng, và một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Ngài vào nhà mình ». Đức Giêsu vẫn giữ tương quan với những người thân yêu, Ngài vẫn trân trọng tình thương của họ, vẫn cảm nếm sự dịu ngọt của tình người, chữa lành và hướng nó tới sự sống viên mãn. Xin Chúa làm cho trái tim của chúng ta giống trái tim của Người hơn, trong những gì liên quan đến tương quan của chúng ta với những người thân yêu.

* * *

Nhìn ngắm chị Mác-ta đón Đức Giêsu vào nhà mình với niềm vui. Chúng ta được mời gọi nhận ra những người phụ nữ chúng ta từng gặp thấy trong cuộc đời : đầy lòng tin, quảng đại, hiếu khách, và đảm đang. Thực vậy, cô Mác-ta thật đảm đang : tay làm một lúc nhiều việc, nhưng con mắt lại chú ý đến những việc khác trong nhà, chú ý đến những người khác trong nhà. Và chính ở điểm này mà cô Mác-ta cần được Lời Đức Kitô biến đổi, chữa lành ở mức độ sâu xa nhất, để tìm lại niềm vui, bình an và hạnh phúc bền vững trong tâm hồn.
Trong giờ cầu nguyện hằng ngày, và nhất là trong những ngày tĩnh tâm, Chúa cũng muốn đến thăm “nhà” của chúng ta: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 20). Tôi có ước ao và sẵn sàng không? Và tôi đón Người như thế nào?

2. Lắng nghe và phục vụ (c. 39-40a)

Hãy dừng lại bao lâu chúng ta muốn để chiêm ngắm khung cảnh đầm ấm và rất đỗi bình thường: nhà có hai chị em, có khách quí đến, em tiếp chuyện và chị lo nước nôi và bữa ăn để đãi khách. Không thể hai người cùng nghe; và cũng không thể hai người cùng làm, để khách loay hoay một mình. Nhất là cảm nếm niềm vui của cuộc gặp mặt giữa hai chị em và Đức Giêsu.

  • Nhìn ngắm cô Maria và Đức Giêsu : cô Maria cứ ngồi bên chân chúa mà nghe lời người dạy; bản gốc thân tình hơn, đời thường hơn: cô em Maria ngồi bên chân Đức Giêsu nghe lời của Ngài. Hãy cố gắng nghe dù bản văn Tin Mừng vẫn chưa tường thuật lời nói: lời của Đức Giêsu dành cho cô Maria, và lời của Maria dành cho Đức Giêsu (cô chỉ lắng nghe, nhưng chắc chắn có cảm xúc và cả tiếng lòng nữa). Chúng ta có thể hình dung ra tư thế của Đức Giêsu. Trong giờ cầu nguyện này và trong thời gian Linh Thao, tôi có ước ao có được tư thế và tâm hồn của cô Maria không ?
  • Chúng ta có thể “xuống bếp” nhìn ngắm chị Mác-ta “tất bật lo việc phục vụ” (bản gốc: bận rộn với nhiều việc phục vụ). Chúng ta hãy cố gắng lắng nghe lời, lời trong lòng hoặc lời lẩm bẩm của chị Mác-ta; nhất là nhận ra chuyển động nội tâm của chị. Diễn biến nội tâm của chỉ có thể được chia làm ba bước: lúc đầu chị chú ý lo việc trong niềm vui; sau đó nhìn bên này, nhìn bên kia, nhìn những công viêc mình phải làm, rồi nhìn lên nhà trên ; và cuối cùng chị bỏ bếp đi lên! Điều gì đã xẩy ra trong cô, khiến cô bỏ bếp đi lên nhà trên?

3. « Băn khoăn lo lắng » (c. 40b-42)

Ở điểm cầu nguyện này, chúng ta hãy lắng nghe lời của cô Mác-ta và lời của Đức Giêsu. Cô Mác-ta bỏ bếp đi lên, tiến lại và nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” Trong câu nói của Mác-ta, hàm chứa hai lời trách móc: trách em và trách Đức Giêsu, dựa trên hai sự kiện rất khách quan: Maria chỉ biết ngồi đó nghe, còn Đức Giêsu thì chỉ biết ngồi đó nói! Như thế, chị Mác-ta thật có lí.

Chúng ta cũng hay trách Chúa và trách (anh) chị em như thế. Ngoài ra, chị còn gợi ý cho Đức Giêsu điều Ngài cần làm cho chị : « Xin Thầy bảo nó… »! Tuy nhiên, chị có một vấn đề thâm sâu mà Đức Giêsu mời gọi chị hoán cải. Nhưng trước hết, chúng ta hãy cảm nếm sự thương cảm của Đức Giêsu dành cho Mác-ta: “Mác-ta, Mác-ta ơi!”. Hai lần gọi tên!

Khi nói với cô Mác-ta: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Đức Giêsu dường như đề cao, thậm chí tuyệt đối hóa, việc lắng nghe lời của Ngài trong cầu nguyện. Chính vì thế, truyền thống thiêng liêng thường hiểu lời của Đức Giêsu theo hướng này.

Tuy nhiên, trong những trường hợp khác, Đức Giêsu cũng nhấn mạnh không kém đến việc phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20, 26-28); “anh em hãy rửa chân cho nhau, như Thầy rửa chân cho anh em” (Ga 13, 14). Và ngày nay, trong Giáo Hội cũng như trong xã hội, việc làm cụ thể và thái độ dấn thân phục vụ được đề cao cách đặc biệt. Vì thế, người ta còn hiểu lời của Đức Giêsu theo hướng trung dung, nghĩa là cầu nguyện và hoạt động không đối nghịch nhau, nhưng qui về nhau.

* * *

Nhưng nếu chúng ta khởi đi từ vấn đề nội tâm của cô Mác-ta: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!”, chúng ta sẽ hiểu lời của Đức Giêsu theo một hướng khác, có lẽ đúng hơn, sâu hơn và đánh động chúng ta nhiều hơn. Thật vậy, lời của Đức Giêsu không nhắm tới “sự việc”, việc phục vụ hay việc cầu nguyện, và cũng không nhắm tới tương quan giữa hai việc này; nhưng lời Đức Giêsu liên quan đến con mắt, diễn tả thái độ nội tâm, khi chúng ta cầu nguyện cũng như khi chúng ta làm việc phục vụ.

Vì thế, sứ điệp sâu xa chất chứa trong lời của Đức Giêsu liên quan đến đôi mắt. Mác-ta làm việc ở dưới bếp nhưng lại hay ngó lên trên nhà. Đức Giêsu không phủ nhận giá trị của việc phục vụ mà chị đang thực hiện cách quảng đại, nhưng vấn đề là con tim của chị: “băn khoăn và lo lắng”. Sống và làm việc, nhưng đôi mắt lại nhìn bên này, nhìn bên kia, nhìn ở đây, nhìn ở trên kia và rốt cuộc “bỏ bếp đi lên”! đôi mắt diễn tả sự không bình an của tâm hồn, nhất là diễn tả sự ghen tị không chấp nhận sự khác biệt.

  • Đức Giêsu nói: “Chỉ có một điều cần thiết thôi”, đó là con đường mình đang đi, ơn gọi mình đang sống, việc mình đang làm, bài Linh Thao mình đang thực hiện…, hãy nhìn vào đó và xác tín rằng đó là ơn huệ Chúa ban và là điều tốt nhất. Trong nhiều lựa chọn, Maria đã chọn một; và đối với cô đó là lựa chọn tốt nhất và cô hướng đôi mắt và tâm hồn của mình vào điều này.
  • “Chỉ có một điều cần thiết”, còn có nghĩa là thái độ nội tâm “biết lắng nghe Lời Chúa” trong mọi sự, dù chúng ta đang ở đâu, hay đang làm công việc nào, đang cầu nguyện hay đang làm việc, đang đọc kinh hay đang học tập, đang làm việc thiêng liêng hay đang phục vụ .

NVL

…………………………………………………………………….

[1] Nếu đặt trình thuật Luca như khởi điểm của hai trình thuật tiếp theo trong Tin Mừng Gioan, chúng ta có thể nhận ra sự “lớn lên” của Mác-ta trong tương quan với Đức Kitô, với những người khác và với công việc: chị quan tâm đến công việc của mình, nên trách em và trách Thầy; tiếp đến chị thương em Lazarô của chị đến độ trách “yêu” Đức Giêsu: “Nếu Thầy ở đây em con đã không chết” (Ga 11, 32); và sau cùng, ngay trước ngưỡng của cuộc Thương Khó của Đức Giêsu, chị chẳng nói gì nữa, tác giả Tin Mừng chỉ kể lại: “Cô Mác-ta lo hầu bàn”. Như thế, chị đã như đạt được ơn bình an sâu thẳm trong tâm hồn:

  • Bình an, nghĩa là tự do với mọi sự để yêu mến và phục vụ Đức Giêsu vẫn với và ngang qua công việc phục vụ nhỏ bé không tên của mình.
  • Bình an, nghĩa là tôn trọng sự khác biệt nơi những ngôi vị khác và đi vào hiệp thông dẫn đến hiệp nhất, thay vì ghen tị giản lược người khác vào chính mình hay ngược lại giản lược mình vào người khác.

Hãy tin tưởng Mẹ Maria

 

 

Tôi vốn là một người ngoại giáo, đã trở về với Chúa được hơn 8 năm nay, là nhờ hồng ân của Đức Mẹ Maria. Ngày ấy người con trai duy nhất  của tôi bị ung thư máu, và xuất huyết não nặng, nằm bịnh viện hơn một tháng mà không thuyên giảm, tình trạng ngày một xấu đi.

Và cuối cùng các bác sĩ đành bó tay cho về. Lòng tôi quặn đau, ruột gan tơi bời, tôi chết lặng mang con ra xe mà không cầm được nước mắt. Chồng tôi phờ phạc cả người, thẫn thờ như người mất trí …

Ngồi trên xe tôi bổng để ý trước mặt tôi; tấm ảnh Đức Mẹ của người Công giáo, dán trên cửa kính xe, với dòng chữ bên dưới bức ảnh đập vào mắt tôi thật rõ:  “Hãy tin tưởng vào Mẹ Maria, bạn sẽ thấy phép lạ là gì”

Sau này tôi được biết đó là tấm ảnh Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu. Đức Mẹ bế trên tay Chúa Giêsu, đầu Chúa và Mẹ đều đội triều thiên rất đẹp; và lời nói trên là của Thánh Don Bosco, một vị Thánh sống rất đẹp lòng Đức Mẹ.

Như người chết đuối vớ được phao, tôi mừng rỡ nhìn thật sâu thật lâu vào tấm ảnh với một lòng cậy trông, đặt hêt tin tưởng vào Mẹ, qua lời người đã viết bên dưới bức ảnh. Tôi thưa với Đức Mẹ:

“Thưa Bà, con là người ngoại đạo, con xin bà cứu chữa con của con. Con chỉ có một đứa con trai duy nhất, con con bị bệnh nặng, các bác sĩ đã chê và cho về, con biết chỉ có Bà mới cứu được con con khỏi tay tử thần. Bà ơi, con đặt hết lòng tin tưởng vào Bà, con van xin Bà cứu chữa con của con.”

Lòng tôi hêt sức van vái, trong khi miệng tôi lẩm nhẩm kêu nài, vừa cầu xin tôi vừa nhìn lên bức ảnh với những dòng nước mắt chảy dài. Con tôi nằm trên tay, thằng bé chưa đầy mười tuổi đầu, mặt xanh nhợt, người mềm như sợi bún, nằm im như một xác chết vô hồn. Nhìn con rồi nhìn người đàn bà bế đứa trẻ trong bức ảnh, tôi nhủ thầm:

“Bà ơi, Bà đã từng làm Mẹ, Bà cũng có con, Bà thấu rõ nổi đau khổ của người mẹ đang cay đắng khổ sở thế nào khi mất đứa con. Xin Bà lấy lòng từ bi thân mẫu cứu sống con tôi. Tôi xin hứa với Bà nếu con tôi sống, gia đình tôi sẽ xin theo Đạo. Và dù chỉ có một đứa con trai duy nhất, tôi cũng xin dâng nó cho các Ngài, để suốt đời nó phụng sự các Ngài…”

Xe chạy đường dài, mệt mỏi với những đêm thức nuôi con bệnh, tôi mệt mỏi thiếp đi, khi lòng trí vẫn mơ màng xin ơn cứu tử. Đang thiu thiu ngủ mê ngủ mệt, tôi nge tiếng động trở mình của con tôi, mở mắt ra, tôi thấy tay chân cháu quờ quạng như muốn nói điều gì, mắt nó mở to nhìn tôi thật lâu, rồi tự dưng nó nhoẻn miệng cười.

Trời ơi, thế này là thế nào? Tôi muốn hét lên: “Con tôi tỉnh rồi. Ôi tôi mừng quá. Tôi sung sướng quá.”

Tôi lặng người liú lưỡi gọi ba nó ngồi trên băng trước. Vội vàng anh lao xuống quỳ cạnh con, gục đầu trên thằng bé, cảm động đến tràn trề nước mắt …

Thì ra anh cũng nhìn tấm ảnh và cũng đã có những lời cầu xin tha thiết với Đức Mẹ như tôi. Nhìn con nằm im, gương mặt thoải mái dễ chịu, không tỏ vẻ đau đớn như những ngày trước, tuy cháu còn mệt và chúng tôi hỏi gì cháu chỉ mỉm cười mà không nói. Bác tài xế nge sự tình cũng xúc động rơi nước mắt đến nổi bác phải ngừng xe lại, và thầm thỉ cầu nguyện để cám ơn Bà đã cứu sống con tôi …

Rồi xe chạy một lát tới nhà. Cháu tỏ ý muốn được ngồi dậy, xuống xe một cách yếu ớt đi vào nhà. Tôi và ba cháu chẳng hiểu sự việc làm sao, nhưng lòng đầy tin tưởng rằng Bà trong ảnh đã cứu con mình…Dìu cháu từng bước đi vào nhà mà tôi cứ tưởng như người trong mơ …

Về đến nhà, qua một tuần lễ nghỉ ngơi lấy lại sức, cháu đã trở lại bình thường như không có bệnh gì. Tôi không cho cháu uống thêm thuốc bệnh, nhưng cắt thêm thuốc bổ để cháu mau lại sức.

Sau đó một thời gian, tôi đưa cháu đi kiểm tra lại sức khoẻ, qua siêu âm thử máu và làm các xét nghiệm, thì các bác sĩ vô cùng ngạc nhiên, vì không còn phát hiện ra mầm mống một chút gì của căn bệnh nan y này nữa. Họ bảo gia đình tôi:  “Đây là một trường hợp hiếm có mà khoa học không thể giải thich được.”

Có một bác sĩ Công giáo sau khi nge tôi kể, đã bảo tôi nên xin Lễ tạ ơn, ở một Nhà Thờ nào đó. Và tôi đã đến xin các Cha ở Dòng Chúa Cứu Thế, dâng Lễ tạ ơn vì con tôi đã khỏi bệnh.

Qua sự việc này, gia đình tôi biết chắc chắn có bàn tay của Đức Mẹ, đã thực hiện quyền phép của người, để cứu giúp những ai đặt hết lòng cậy trông, tin tưởng nơi Ngài khi gặp nguy khốn. Bằng chứng là Ngài đã chữa lành con tôi.

Để tỏ lòng cảm tạ ân nhân, tôi xin chủ xe tấm ảnh để hằng ngày được nhìn thấy và cầu nguyện với Ngài. Ông lái xe thật là người tốt, sẵn sàng biếu ngay.  Ngoài vợ chồng tôi, ông là người được chứng kiến phép lạ đầu tiên, rồi cũng chính ông sau này đã lo liệu mọi sự, giúp đỡ chúng tôi trở thành người Công giáo.

Thưa các bạn, suốt từ ngày tôi trở lại Công Giáo đến giờ, tôi thấy mình luôn vui, sống có hy vọng, sống có ích, biết quan tâm giúp đỡ những người xung quanh, thay vì sống thờ ơ chỉ biết có mình …

Tôi cũng cùng sinh hoạt với các bà các chị trong hội đoàn của Giáo Xứ. Ở lối xóm lại biết chia sẻ cho nhau niềm vui nổi buồn, mỗi tuần cùng đến nhà nhau đọc kinh liên gia. Tôi thấy cuộc sống của gia đình chúng tôi rất có  ý nghiã, không còn nhàm chán như trước …

Trong gia đình vợ chồng con cái biết yêu thương kính trọng nhau, nhờ được học hỏi để biết cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa. Con trai tôi cũng biết vâng lời cha mẹ, chăm chỉ ngoan ngoãn học hành, lại thường xuyên sinh hoạt giáo lý trong Nhà Dòng các cha Don Bosco. Và được sự đồng ý như lời hứa của tôi với Đức Mẹ, cháu rất ước ao mong mỏi được dâng mình vào Nhà Chúa để lo việc phụng thờ Ngài.

Vâng!  Lạy Chúa, cuộc đời còn lại của con xin được là một bài ca cảm tạ hồng ân vì những ơn lành của Chúa và Mẹ đã ban cho gia đình con, và sẽ là suối nguồn hạnh phúc mà Ngài tiếp tục ban cho chúng con mãi mãi muôn đời. Amen. Amen. Tạ ơn Chúa.