Home Blog Page 494

Tổ ấm đặt ngoài trái tim

Thời nay, có rất nhiều bậc phụ huynh ngồi với nhau liền bảo: “Thôi, bây giờ con cái đặt đâu ta ngồi đấy!”. Một lời nói có thể coi nhẹ như gió thoảng nhưng chứa trong đó cả cuộc đảo lộn của thời đại đến mức khó lòng tin nổi. Tại sao?

Bởi xưa kia “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Có thể cha mẹ dấm chỗ từ khi mới sinh con, đến tháng đến năm thì liền bàn bạc với gia đình thông gia chuẩn bị đón dâu, con gái có khóc hết nước mắt cũng mặc, vì nếu “ vua không thể nói chơi” thì “ phụ mẫu cũng không thể nói đùa”. Đó là cách liên kết thông gia từ xa, nhưng cũng có khi cha mẹ ngẫu hứng lên, bỗng thấy đám nào hay hay, thấy chiều hướng có thể thuận lợi, bèn quyết định liền nhanh như bầu trời sẵn cơn mưa giông ào xuống,con cái thấy bất ngờ cũng đành chịu, vì cha mẹ đã quyết rồi. Hôn nhân cha mẹ đặt đâu con ngồi đó đã khơi chảy biết bao nhiêu hàng lệ nghẹn ngào tức tưởi sau màn the. Chao ơi, cha mẹ có thể chọn rể cho con, mà chọn một thông gia giàu có cho mình, bắt con lấy cả những “ ông lão” già ngẩn già ngơ, hoặc có anh còn trẻ nhưng ruồi đậu mép không thèm đuổi, bố mẹ liền bỏ ra một cô vợ mong rằng có một y tá chăm sóc hộ… Có những chuyện thách cưới diễn ra thật cười ra nước mắt, như báo chí đã đăng: Chàng và nàng yêu nhau lắm, phải cái bố nàng tham, đến tận hôm cưới còn vòi thêm một con lợn móc hàm khoảng một tạ. Đám mổ lợn của nhà trai tức lắm, có anh chơi khăm khi cho khênh con lợn sang nhà gái liền bỏ vào đó nguyên một bộ lòng chưa làm gì cả. Và trong lúc mọi người đang dự lễ cưới nói nói cười cười, thì đám nhà bếp của nhà gái la thất thanh lên: “ Ông chủ ơi, chúng nó bưng con lợn sang còn nguyên cả phân”. Bố vợ tím mặt, tức sùi bọt mép, ra lệnh khênh con lợn trả cho nhà trai, không có cưới xin gì nữa. Thế là đêm hôm đó con gái ông cùng chàng rể khăn gói đi biệt xứ, cưới nhau ở xứ người, ông bố chẳng kiếm được một xu lẻ nào. Đúng là tham thì thâm.

Đám cưới do cha mẹ áp đặt là đám cưới lạc hậu, và giờ đây tình hình đã đổi thay 1800, đến mức: không phải là cha mẹ đặt đâu con ngồi đó nữa, mà là con cái đặt cha mẹ vào sự lựa chọn của mình. Ở nhiều nhà, cha mẹ bây giờ không thể nói, cha mẹ muốn đám này đám kia, con chuẩn bị ngày người ta đến ăn hỏi. Những đứa con, cả trai, cả gái sẽ thẳng thừng khước từ. Trái lại, trai thanh và gái lịch lựa chọn lẫn nhau, yêu nhau, đến mức có thể, chàng trai đưa bạn gái về nhà giới thiệu, hoặc con gái dẫn bạn trai về nhà chào bố mẹ. Rồi cha mẹ sẽ lựa theo tình hình tiến triển của con gái mà bố trí hôn nhân.

Đó là hôn nhân do con cái tự quyết định lấy cuộc đời mình. Hạnh phúc thì hưởng, nếu gặp phải cảnh ngang trái, khổ sở, thì tự làm, tự chịu, đừng có đổ tội cho bố mẹ, là những người không can dự vào con đường của trái tim.

Nhưng như người đời nói, tấm huân chương nào cũng có những mặt trái của nó, tình duyên áp đặt gặt hái ngay nước mắt ngang trái lúc ban đầu, ngậm bồ hòn suốt quãng đời, nhưng như chúng ta biết xưa kia có không đến 1% bỏ nhau. Còn hôn nhân thỏa chí do tình yêu mang lại, mở đầu là những nụ cười, tiếng sâm banh nổ và cắt bánh ga tô, nhưng lại có đến ngót 50% bỏ nhau, cư có ba đôi thì chắc có 1 đôi bỏ nhau, thậm chí có hai đôi thì có 1 đôi bỏ nhau, tỉ lệ gấp gần 50 lần xưa kia. Tại sao vậy? Có những đôi yêu nhau 1 năm, hai năm, rồi năm năm, yêu nhau lắm, hiểu nhau tọc mạch, thậm chí tình yêu hiện đại đã biến thành hôn nhân chưa có ngày cưới mà thôi, thế là, sau hôn nhân chẳng có bất kì sự chuyển tiếp huyền bí khao khát nào xảy ra cả, bởi tất cả đã xảy ra trước mắt rồi. “Cơm đã ăn và gạo không còn”. Thế là hôn nhân đành bưng nồi cơm nguội ra ăn.

“Nồi cơm nguội” nàng rất tội tình, vì khi yêu người ta đã thêu hoa dệt mộng vào rất nhiều, người ta mong đợi người yêu phải là thứ này thứ nọ, người ta đâu biết rằng, lúc đang yêu là con người ta thăng hoa nhất, bạn tình cũng chỉ có từng ấy thôi, hơn nữa lúc yêu người ta thường là những ngụy trang tài tình “ tốt đẹp phơi ra xấu xa đậy lại”, cưới được nhau rồi thì bao nhiêu cái dở, cái xấu lộ ra hết, cộng với cảnh nồi niêu xoong chảo thực tế của gia đình càng làm cho những nhân vật của những giấc mơ sớm biến thành vỡ mộng, thế là những cuộc đấu khẩu bóc mẽ diễn ra mỗi ngày một nhiều, “ Tôi cứ tưởng hóa ra anh chỉ là…” thế là hôn nhân liền ném ra những vết nứt khổng lồ.

Trái lại hôn nhân bị áp đặt cũng là một tấm huân chương có “mặt phải” của nó. Hai người đến với nhau như hai thế giới xa lạ, đầu tiên đã được “ phu thê giao bái’ và “ động phòng hoa trúc”, rồi dìu nhau lên giường cưới ngỡ ngàng như hai kẻ một đằng gảy nhạc Tây, một đằng hát quan họ mà chẳng hề hát song ca “ Cho tôi được một lần dìu em sang phòng cưới…” thế nhưng họ mở màn khám phá nhau như mở nút càn – khôn huyền bí của âm dương, khám phá chưa xuể, bình minh lên họ lại ngẩn ngơ đợi hoàng hôn xuống, để còn tiếp tục khám phá chương trình giới tính, đến một ngày họ trở nên hai nhà “khoa học” yêu nhau say đắm lúc nào không biết, vì lẽ, mỗi người đều vừa là nhà khám phá, vừa là đối tượng nghiên cứu cho nhà khoa học, cùng lúc không thể nào thiếu hai người: 1 – người nghiên cứu, 2 – đối tượng nghiên cứu. Người phương Tây có câu: “Nếu không yêu được người ta muốn, thì hãy yêu người ta có thể”. Người ta muốn tất nhiên là người lọt vào mắt ta hoàn toàn, và ta khao khát trọn vẹn, nhưng đời đâu có chiều ta, vì cái người ta muốn ấy cũng có rất nhiều người khác muốn, thêm nữa , người đó lại không muốn ta. Rút cục ta không cách nào thực hiện nổi: cái ta muốn thành cái ta có. Vậy thì, ta đành hạ tiêu chuẩn thôi, đó cũng là cách sống thực tế, ta đành nên yêu người trong tầm tay ta thôi, mặc dù không muốn lắm. Nhưng kì diệu thay, cái người ban đầu tưởng rằng chỉ có thể yêu chút chút thôi, thì nó cứ lên men âm ỉ ngày nọ qua ngày khác, chũng ta cũng nên nhớ: thức ăn càng ngon càng chóng chán, trái lại, lúa gạo không bao giờ là quốc yến nhưng ăn chẳng bao giờ chán. Có những tình yêu “ tầm tầm “ cũng vậy, nó không gây những cơn sốc làm chấn động làm bật gốc cả tâm hồn, nhưng lại âm ỉ mưa dầm thấm lâu, nó như “ cơm tẻ” ăn đều đều mỗi ngày, ăn mãi chẳng thấy chán và vừa nhịn cơm tẻ đến bữa thứ hai đã nhớ, bữa thứ ba thì xót ruột quá không thể nào chịu nổi.

Vậy thì tình yêu là thứ gì đây? Nó là một huyền diệu mà những người đã ghì xiết được trong tay chớ có đắc chí rằng ta có mãi mãi, bởi chỉ cần thiếu nuôi dưỡng, duy trì, và khao khát, lập tức tình yêu biến mất. Nuôi dưỡng tình yêu thế nào đây? Cứ ăn thốc ăn tháo ư? Cứ vòng tay dan mãi vòng eo ư? Được một hôm thì lập tức khao khát biến mất, vì càng uống no càng hết khát ! Bởi vì tình yêu cùng lúc cần cả ăn no cả gần khao khát. Và tình yêu cũng còn huyền nhiệm theo chiều ngược lại, mới đầu tưởng xa lạ ư, không cần đếm xỉa đến nhau ư, nhưng “ Lửa gần rơm lâu ngày sẽ bén” và bén lửa rơm thì âm ỉ lắm, vào rơm trên những mái nhà chính là vật dẫn cháy cả kinh thành, và có thể một ngày đôi tình nhân sẽ nói với nhau : “ Anh cứ tưởng em là một đống rơm vô cảm, vậy mà rút cục nó đã dần cháy cả đời anh trong ngọn lửa ngào ngạt hương cốm”.

Hôn nhân có tình yêu là điều tốt nhất, nhưng chớ có chủ quan lại kẻo dẫn đến một bi kịch tam vỡ cộng thêm vào gần 50% tan vỡ của nhân loại. Nhưng cũng đừng quá thờ ơ, than thân trách phận về thứ duyên lấy “người ta có thể”, hãy cứ “ chăm bón” đi, biết đâu tình yêu sẽ đến, từ cánh đồng chăn gối mọc lên một cây si đa tình không siết kể.

Cuộc đời thật hoàn hảo!

Gần như cả thế giới này đang không tin vào điều đó, đang cố chứng minh và thuyết phục những người khác trong đó có chính bản thân mình rằng “trên đời này không có gì hoàn hảo cả”. Thực tế là cuộc sống này quá phức tạp và luôn có những khiếm khuyết.

Cuộc sống thật bất công, dường như bất hạnh luôn xảy đến với bạn còn may mắn thì chẳng bao giờ mỉm cười. Bạn không hề thuộc về thế giới này, bạn chỉ làm cho mọi người đau khổ, bạn chỉ là gánh nặng, tất cả mọi thứ đều bế tắc và ngõ cụt, không còn có chút hi vọng vào tương lai, có lẽ chỉ có cái chết mới có thể giải thoát được sự tù túng này?

Đã bao giờ bạn nghĩ như thế chưa? Bạn cảm thấy mình thừa thãi? Bạn nhìn người khác và cảm thấy ghen tị? Bạn oán trách ông trời rằng tại sao bạn không thể được như họ?

Nếu bạn không rơi vào hoàn cảnh này, có thể bạn đã lập kỉ lục Guiness, trở thành một ca sĩ, diễn viên, người mẫu, cầu thủ nổi tiếng? Bạn nghĩ thế chứ? Nếu không thì bạn cũng là người có một việc làm tử tế với mức lương ổn định, có một gia đình hạnh phúc, được đến chỗ này chỗ kia. Bạn có nghĩ thế không?

Đôi lúc bạn tự nhủ rằng bạn cũng làm được như người này người kia thậm chí tốt hơn họ nhưng họ thì vẫn cứ an nhàn hạnh phúc, có phải vậy không? Bạn có cho rằng chỉ mình bạn hay những người khuyết tật giống như bạn mới phải chịu những bất hạnh tương tự?

Đã bao giờ bạn ước muốn điều gì đó mà chẳng dám thực hiện? Bạn sợ hay chắc chắn rằng bạn không thể làm được? Bạn sợ người khác sẽ cho là viển vông và cười nhạo bạn? Bạn sợ sẽ phải làm phiền đến những người khác?

Bạn quan tâm, để ý và muốn chăm sóc ai đó nhưng bạn lại nghĩ rằng mình không thể làm được. Bạn muốn đền đáp hay làm gì cho một ai đó nhưng bạn nhận ra rằng bạn không thể làm gì cho họ hay là họ nói họ không cần gì ở bạn?

Bạn chán nản, mệt mỏi và cảm thấy bế tắc giữa cuộc đời? Bạn cảm thấy bất lực, thấy mình không có lối thoát, thấy tương lai bạn mờ mịt và chỉ là ngõ cụt?

Dù bạn đang nghĩ và cảm thấy điều đó mỗi ngày, hay chỉ đôi khi nghĩ đến thì bạn cũng đang tự làm cho chính mình tổn thương.

Những gì tôi viết ở đây sẽ không hề mang tính triết lý, tư tưởng giáo dục hay tuyên truyền cho bất cứ một tôn giáo hay môn phái nào. Tôi cũng sẽ không hướng bạn tới một định lý, một lý thuyết nào. Tất cả những gì tôi viết ở đây chỉ là bạn, cuộc sống, hạnh phúc và tương lai của bạn. Và tôi sẽ viết nó một cách ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu nhất một cách có thể.

Khi bạn đọc xong và sẽ bảo “ừ, cũng đúng đấy. Nhưng chắc không dành cho mình. Mình có nỗi khổ riêng mà chẳng ai hiểu được” hay là “họ chỉ nói lý thuyết suông, họ cứ sống như mình đi rồi biết cuộc sống ấy khó khăn như thế nào”.

Vì thế trước khi đọc những gì tôi viết ở đây, tôi muốn bạn biết rằng người viết nó là một người hoàn-toàn-bình-thường, là cô gái trẻ với thể trạng yếu ớt ở lứa tuổi hai mươi, là người khuyết tật nặng, bị liệt hoàn toàn từ ngực trở xuống (do chấn thương cột sống), không thể ngồi được nếu không có chỗ dựa hoặc bám chắc, không thể chủ động tiểu tiện đại tiện, vẫn bị loét hoại tử, hầu như không thể ra khỏi nhà và vẫn bị các cơn đau hành hạ hàng ngày, mọi sinh hoạt đều cần sự hỗ trợ của người thân. Người viết nó cũng không có bằng cấp, học vị, chưa kết hôn, chưa có con cái, không có tài khoản riêng, không có điều kiện kinh tế khá giả, không tham gia vào bất kì trung tâm, khóa học kĩ năng sống hay theo một trường phái nào. Tất cả chỉ là sự trải nghiệm cá nhân.

Vì thế, bạn hãy mở lòng đón nhận những gì tôi viết bằng sự nỗ lực như tôi đang cố gắng phấn đấu để dám viết những dòng chữ này mà không thấy thẹn với lòng mình. Tôi không nói về bản thân mình hay một số người nào đó, tôi đang nói về tất cả chúng ta – những người mang những khiếm khuyết (tôi sẽ chỉ gọi đó là khiếm khuyết) để tất cả chúng ta sẽ cùng cố gắng, không vì riêng một ai. Hãy đón nhận những gì tôi viết như là một người bạn thân của bạn đang chia sẻ với bạn về những điều mà người bạn thân ấy rút ra được qua những tháng ngày cố gắng đến kiệt cùng chỉ để được sống.

Cuộc sống này không hề hoàn hảo. Phải, cuộc sống này không hoàn hảo. Chúng ta không hoàn hảo, chúng ta có những khiếm khuyết mà bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy được. Nhưng không có lý do gì để chúng ta không sống một cách hoàn hảo – sống một cách trọn vẹn ý nghĩa, yêu thương mà không bao giờ phải hối tiếc; không có lý do gì để chúng ta không nuôi dưỡng một niềm tin hoàn hảo – là một niềm tin có thể vượt qua được mọi thử thách của cuộc đời, để luôn hướng đến những điều tốt đẹp hơn, để chúng ta vẫn cảm thấy cuộc sống này hoàn hảo, thậm chí ngay những khiếm khuyết cũng trở nên hoàn hảo dưới một đôi mắt đẹp.

HBV

Phụng Vụ Thánh lễ – Thứ sáu đầu tháng

Ca Nhập Lễ

Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo.

Lời Nguyện Nhập Lễ

Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử, để chúng con trở thành con cái ánh sáng; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc, nhưng gìn giữ chúng con luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Chúng con cầu xin…

BÀI ĐỌC I: Am 8, 4-6. 9-12

“Ta sẽ cho nạn đói trên đất này: nhưng không phải là đói cơm bánh, mà là đói lời Chúa”.

Bài trích sách Tiên tri Amos.

Ðây Thiên Chúa phán: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ nghèo khó và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước. Các ngươi bảo: “Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng! Khi nào hết ngày Sabbath để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát”.

Chúa là Thiên Chúa phán: “Ngày ấy Ta sẽ khiến mặt trời lặn ngay giữa chính ngọ, và sẽ khiến mặt đất ra tối tăm giữa ban ngày. Ta sẽ làm cho các ngày đại lễ của các ngươi trở nên ngày tang tóc, cho các bài ca trở thành lời khóc than. Ta sẽ lấy bao bố đặt trên lưng các ngươi và khiến mọi người trọc đầu. Ta sẽ làm cho ngày ấy trở thành như ngày tang mất con một, và sau cùng nó trở nên ngày cay đắng”.

Thiên Chúa lại phán: “Rồi đây sẽ đến ngày Ta cho nạn đói đến trên đất này, nhưng không phải là đói cơm bánh hay khát nước đâu, nhưng là đói nghe lời Chúa. Người ta sẽ di chuyển từ biển này qua biển nọ, từ bắc đến đông: họ đi vòng quanh tìm kiếm lời Chúa, nhưng chẳng thấy.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 118, 2. 10. 20. 30. 40. 131

Ðáp: Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (Mt 4, 4).

1) Phúc đức những ai giữ lời Ngài nghiêm huấn, những người đó tận tâm tìm kiếm Ngài.

2) Với tất cả tâm can con tìm Chúa, xin chớ để con lạc xa chỉ thị Ngài.

3) Sở dĩ linh hồn con mòn mỏi, là vì luôn luôn khao khát thánh dụ của Ngài.

4) Con đã chọn con đường chân lý, con quyết tâm theo các thánh chỉ của Ngài.

5) Này đây, con khao khát huấn lệnh của Ngài; theo lượng công minh Ngài, xin cho con được sống.

6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, và con ham muốn những chỉ thị của Ngài.

ALLELUIA: Tv 94, 8ab

All. All. – Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. – All.

PHÚC ÂM: Mt 9, 9-13

“Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: “Hãy theo Ta”. Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?” Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: “Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ”. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi”.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Lời Nguyện Tiến Lễ

Lạy Chúa, Chúa dùng các bí tích để ban phát ơn cứu độ; xin cho cộng đoàn chúng con biết cử hành lễ tế thờ phượng này với tinh thần phục vụ của Đức Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Kinh Tiền Tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Nhờ Con yêu dấu của Chúa, Chúa đã tác thành nhân loại thế nào thì Chúa cũng lấy lòng rất nhân từ mà tái tạo như vậy. Bởi đó, mọi loài thụ tạo phải phụng thờ Chúa, mọi người đã được cứu chuộc ở khắp nơi đều cung kính ca ngợi, và các Thánh đồng tâm chúc tụng. Vì thế, cùng với toàn thể các Thiên thần, chúng con ca ngợi Chúa và luôn hân hoan tuyên xưng rằng: Thánh! Thánh! Thánh!

Ca Hiệp Lễ

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi. Toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh.

Lời Nguyện Hiệp Lễ

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chúng con vừa dâng lễ tạ ơn và đã được rước Mình và Máu Con Chúa là nguồn mạch sức sống dồi dào; xin cho chúng con hằng gắn bó cùng Chúa để sinh hoa quả tồn tại đến muôn đời. Chúng con cầu xin…

 

Chính trong cái trống rỗng của tư duy mà nảy sinh ra sự dữ

Bài phỏng vấn giáo sư triết François-Xavier Bellamy trên trang mạng L’Opinion ngày 15 tháng 6. Bài do Irène Inchauspé ghi lại.

Triết lý có thể giúp chúng ta hiểu nạn khủng bố không?

Lúc nào trong sự dữ cũng có một huyền bí nào đó không giải thích được, và nó phải ở đó. Làm sao có thể tự cho mình có thể hiểu tất cả? Khi một người quyết định họ giết một người vô tội, thì chuyện xấu này đòi có một lý do. Sự dữ tuyệt đối, là cái phi lý có thể chiếm lĩnh con người. «Chính trong cái trống rỗng tư duy mà nảy sinh ra sự dữ», nữ triết gia người Do Thái Hannah Arendt đã viết. Như thế thúc đẩy chúng ta phải giữ lương tâm luôn tỉnh thức: Nếu triết lý không giải thích được nạn khủng bố thì nó có thể tìm tòi để hiểu ở mãnh đất nào đã sinh ra khủng bố, có nghĩa là các điểm yếu, sự mong manh của xã hội chúng ta, những kẽ hở qua đó bạo lực len vào. Có vẻ như chúng ta không sống nhiều «cơn sốc của các văn hóa» cho bằng «cơn sốc của sự kém văn hóa»: khi nói như vậy, tôi không nói văn hóa theo nghĩa ưu tú hay hời hợt bên ngoài. Văn hóa là cái gì thiết yếu nhất nơi con người: và sự nghèo nàn của nó sản xuất ra cơn khủng hoảng mà chúng ta đang sống, sự khó khăn khi nói chuyện chung với nhau, sự dửng dưng làm cô lập chúng ta, sự không có khả năng đối thoại  – trong khi lời nói là trọng tâm cho sự điều hành của tất cả mọi nền dân chủ. Khi các sự không biết tương tác qua về trong xã hội, mọi sự bất đồng trở nên nguồn của bạo lực, và con người gần như trở nên thiếu tình người. Thách thức của xã hội chúng ta là đi ra khỏi cơn sốc kém văn hóa, và muốn làm như vậy thì phải tái chinh phục lại lời – kể cả lời trước công chúng, mà sự rút tủy là cả một vấn đề chính trị.

Chúng ta có thể tự an ủi cho sự bất công khi nói ai làm sự dữ thì chính người đó bất hạnh?

Phải nghĩ đến điều ngược lại: nếu không nhục nhã, không hối hận, không ngại ngùng đắn đo, cũng không biết chuyện gì gây bức rức trong lòng, không ngăn chặn được thủ phạm vui về lỗi của mình, thì khi đó chúng ta lại đứng trước một chuyện bê bối khác. Nhưng thực chất của triết lý được sinh ra từ ý tưởng của một đời sống hạnh phúc, mà người Hy Lạp gọi là đời sống tốt. Vậy, chính họ cũng là nạn nhân của sự bức bách và bạo lực, theo Platon, triết gia Socrate khẳng định một xác quyết rất quan trọng: thà chịu bất công còn hơn phạm bất công. Đương nhiên, nghe câu này thì thật cực kỳ choáng khi ngày nay khẳng định như thế, khi chúng ta thấy những người vô tội bị giết chẳng có lý do, chỉ vì họ là người Pháp, người Mỹ, người đồng tính hay cảnh sát. Thật là bất công và thật là tàn bạo… Thế mà triết lý có thể giúp chúng ta không đáp trả bất công bằng cách mình phạm bất công, chọn điều tốt thay vì trả thù. Đó là một chọn lựa anh hùng – vì chính chọn lựa này xây dựng cho nền tảng dân chủ: muốn thảo luận với các người phản biện mình, chứ không phải sự thinh lặng của họ; muốn công chính khi bị tấn công chứ không muốn trả thù; muốn hòa bình, và không muốn quyền lực, tất cả những chuyện này đòi hỏi một sự can đảm vô biên. Nhưng đi xong được con đường này thì có hạnh phúc nhiều hơn là bạo lực, bạo lực chẳng dẫn đến được gì.

Các tôn giáo có phải là nguồn của các sự dữ của con người?

Thật phi ý khi khẳng định tôn giáo là nguyên do của tất cả sự dữ, nhưng cũng phi lý khi nói tôn giáo chẳng có nguyên do gì trong những gì đang xảy ra cho chúng ta. Kitô giáo đã cố gắng để có một đối thoại với lý tính, nhất là tiếp cận với triết lý có trước nó. Chủ nghĩa tận căn là từ chối sự cố gắng này của lý tính. Hồi giáo phải nhận biết sự tự lập của lý tính là điều thiết yếu, dù nhân danh tôn giáo. Vì, như triết gia Pascal đã nói, lý tính đích thực sáng suốt sẽ nhận biết mình không thể hiểu tất cả: và khi nó đi đến tận cùng tiến trình của mình, nó sẽ nhận biết lựa chọn tin hay không tin. Vì không tin, cũng là một lựa chọn, mà không có gì hiển nhiên.

Ông có nói ngày nay chúng ta có thể lạc quan?

Đối với tôi, câu thần chú «rồi sẽ tốt hơn» là hoàn toàn không đúng chỗ khi đời sống của nhiều người càng ngày càng gay go hơn… Thực tế của bất công và bạo lực bắt chúng ta phải cấm mình không được thỏa mãn với một chủ nghĩa lạc quan dễ dãi và hời hợt. Nhưng nếu nó sẽ không tốt hơn thì đây là lúc để hy vọng! Khi xã hội chúng ta gần như khép mình trong thế giới đang đi, trong lợi ích của sự ngay lập tức, thì lúc đó chính trị giảm thiểu xuống còn những câu ngăn ngắn và khi các thảo luận rơi vào sự lên án kịch liệt, thì dù vậy, chúng ta cũng thấy đâu đâu cũng có dấu hiệu của một sự khát khao vô cùng của suy tư, của chiều sâu, của đối thoại. Tôi thấy một dấu hiệu hy vọng, chẳng hạn, trong sự thành công của các Buổi tối Triết học mà chúng tôi tổ chức hai lần mỗi tháng ở Nhà Kịch nghệ của tác phẩm ở Paris. Từ ba năm nay, có 400 người đến các buổi gặp gỡ này không kèn không trống, không quảng cáo… Cái khát cần có một độ lùi, cần suy tư cho thấy khắp nơi trong xã hội chúng ta; và đó cũng là trường hợp ở trường học: ở đó chúng ta không thể thật sự nói rồi sẽ tốt hơn, nhưng là ngược lại. Rất khó để lạc quan… Nhưng dù cho có khó khăn, dù cho các lỗi lầm tập thể của chúng ta, cái khát học hỏi của học sinh đủ để chúng ta tiếp tục hy vọng!

LÒNG NHÂN HƠN CỦA LỄ

Với đời sống con người, bữa ăn rất quan trọng, đơn giản bữa ăn là giờ duy nhất trong ngày, trong đó mọi thành phần trong gia đình có mặt bên nhau, do đó bàn ăn thường là biểu trương của hiệp nhất. Chính vì lẽ đó nên thời khắc này là thời khắc của sử hiệp nhất, nên bữa ăn cũng là giờ linh thiêng trong cuộc sống.

Ông bà ta đã nói: “Trời đánh tránh bữa ăn”. Bữa ăn là dấu chỉ của hiệp nhất, cho nên thời xa xưa, thỏa ước giữa các bộ lạc cũng được ký trong bữa tiệc. Ngồi đồng bàn với nhau có nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhau, chấp nhận tình thân hữu của nhau.

Trang Tin Mừng hôm nay cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu.

Ta thấy các Thánh Sử vẫn thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.

Với Chúa Giêsu, trong bữa ăn và với bữa ăn, Chúa muốn gửi một thông điệp lớn hơn chuyện ăn uống đó là Ngài muốn lòng nhân từ của chúng ta dành cho nhau hơn là những hy lễ thiếu tình yêu. Ngài muốn chúng ta có cái nhìn cảm thông với người tội lỗi hơn là cái nhìn khắc khe, kết án.

Ta không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới”. Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế”, Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.

Người Do Thái bị cấm ngồi chung bàn với những kẻ thu thuế và tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu đã không tuân theo điều cấm kỵ này.  Thay vào đó Người còn trở nên bạn hữu của họ nữa.  Người Biệt Phái trông thấy thái độ của Chúa, liền chất vấn các môn đệ của Người:  “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?”  Câu hỏi này có thể được hiểu như là một biểu hiện lòng ước ao của họ để biết lý do tại sao Chúa Giêsu lại hành động theo cách ấy.

Những người khác giải thích câu hỏi ấy như lời chỉ trích về hành vi của Chúa Giêsu, bởi vì qua hơn năm trăm năm, từ thời gian lưu đày Babylon cho đến thời Chúa Giêsu, người Do Thái đã tuân giữ luật thanh sạch. Điều tuân giữ thế tục này đã trở thành một dấu chỉ mạnh mẽ về bản sắc.  Đồng thời, đó là yếu tố phân cách họ ở giũa các dân tộc khác.  Như thế, bởi vì lề luật thanh sạch, họ đã không thể cũng như không được phép ngồi chung bàn để cùng ăn uống với những người thu thuế.  Ăn uống với những người thu thuế có nghĩa là sẽ bị nhiễm ô uế, trở nên không thanh sạch.  Các giới răn về luật thanh khiết đã được tuân giữ một cách triệt để, tại vùng Paléstine cũng như các cộng đồng Do Thái sống ngoài đất Israel.  Vào thời Chúa Giêsu, có hơn năm trăm giới luật về sự thanh sạch

Với tất cả tâm tình đó, Chúa Giêsu đã thực hiện cho ông Lêvi hôm nay. Chúa đã đi bước trước đề ngỏ lời cùng ông. Chúa đã mở ra cho ông một con đường trở về nẻo chính đường ngay. Chúa cũng mời gọi chúng ta hôm nay hãy lấy lòng nhân từ mà đối xử với nhau. Đừng kết án nhau. Đừng xua đuổi nhau, nhưng biết dùng tình yêu để cảm hoá anh em. Ai cũng có lầm lỗi. Ai cũng có thiếu sót. Đôi khi chỉ vì hoàn cảnh mà sa ngã, phạm tội. Hãy giúp nhau làm lại cuộc đời. Hãy tạo cho nhau điều kiện môi trường tốt để tránh xa dịp tội. Hãy dùng tình thương để góp ý xây dựng cho nhau thay vì kết án nặng lời với nhau.

Chúa Giêsu nghe thấy câu hỏi của những người Biệt Phái nói với các môn đệ và Người trả lời với hai lời minh xác:  lời thứ nhất được chọn lọc từ ý thức thông thường:  “Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu!”  Lời minh xác thứ hai được trích từ Kinh Thánh:  “Các ông hãy đi và học xem lời này có ý nghĩa gì:  Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ.”  Qua những lời minh xác này, Chúa Giêsu làm cho rõ ràng và minh định sứ vụ của Người ở giữa chư dân:  “Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi.”   Chúa Giêsu phủ nhận lời chỉ trích của người Biệt Phái; Người không chấp nhận lập luận của họ, bởi vì chúng xuất phát từ ý tưởng sai lầm về Lề Luật Thiên Chúa.  Chúa đã trích lời Kinh Thánh:  “Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ.”  Đối với Chúa Giêsu, lòng nhân từ thì quan trọng hơn là sự thanh sạch theo đúng luật.  Chúa đề cập đến truyền thống tiên tri để nói rằng đối với Thiên Chúa lòng thương xót có giá trị hơn tất cả mọi hy lễ (Hs 6, 6; Is 1, 10-17).  Thiên Chúa có lòng thương xót thăm thẳm, và đã thổn thức bồi hồi trước những bội bạc của dân Người (Hs 11, 8-9).

Trang Tin Mừng cũng như giáo huấn mà Chúa mời gọi ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích.

Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mỗi Kitô hữu. Và rồi Bàn thờ, Thánh Lễ của ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, trường học, văn phòng, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.

Thiện Ác

Nhà Ðạo học Tây phương Plotin có nói : ” Dù là việc Ác, cũng một phần nào cần thiết như việc Thiện, vì nó phát sinh ra được nhiều tốt đẹp; nó dẫn dắt tìm những phát sinh sáng tạo lợi ích và bắt buộc con người biết thận trọng và ngăn cấm không cho sa vào giấc ngủ mê man, một sự an thân lười biếng. Bóng tối cần cho Ánh sáng, Ác cần cho Thiện, Vô minh cần cho Giác ngộ… Và hơn nữa : Phiền não tức là Bồ đề …Cả hai là Một .

Người ta, ngày nào còn bị ràng buộc trong cái tướng giả hữu của hiện tượng giới … thì còn dùng đến danh từ ” lợi hại “, ” thiện ác “, ” thị phi ” ” hữu đạo, vô đạo”…. rồi đặt thành quy luật để bảo vệ cái Thiện, bài trò cái Ác… mà chẳng hay rằng tất cả vạn hữu trên thế gian này đều chằng chịt với nhau như các tế bào trong một thân thể chung . Bởi hiểu rõ cái lẽ “sự sự vô ngại” của hiện hữu mà tất cả mọi người Giác Ngộ từ trước đến giờ… đều không chấp nhận luật tử hình hoặc hành hạ bất cứ một tội nhân nào bởi tất cả chúng sinh là Một.

Từ ngàn xưa…. những người chưa Giác Ngộ đều cho rằng giáo lý của các Bậc Ðại Giác ( như Phật, Lão, Trang v.v….) không thể bao giờ áp dụng được trong hiện tình xã hội loài người mà phải dùng đến cái luật cùa rừng rú ( loi de la jungle ) nghĩa là “hễ ai móc mình một con mắt, thì hãy móc lại một con mắt ; bẻ mình một cái răng thì bẻ lại một cái răng” ( oeil pour oeil, dent pour dent ) nghĩa là “Thiện Ác đáo đầu, chung hữu báo”.

Ðể chỉ cho nhân loại cái phương pháp vượt khỏi sự nô lệ ngoại cảnh, vượt khỏi sự hằn học, thù hận của loài người lẫn nhau (vì tranh nhau về vấn đề Thiện Ác) vượt lên những quan niệm sai lầm của các thứ nhận thức nhị nguyên đã ràng buộc con người trong vòng u mê, tội lỗi, sân si, tham dục … mà Thích Ca Như Lai mới hoằng dương Phật pháp .

Ðạo Phật là một đạo Ðại Từ Bi, Năng Hỷ Xả và người tu hành Bồ Tát phải … không còn phân biệt kẻ lành, người dữ, kẻ thiện người ác, nghĩa là phải biết “thường hành bình đẳng “.

Ta có thể nói rằng: Nhân Ngã không phải là hai, Bởi Vô Minh nên có Nhân, có Ngã, nên mới có Thiện, có Ác, có lợi, có hại. Trái lại, nếu nhận rõ tất cả là Một, Ta là Người, thì đối với lợi hại, thiện ác sẽ không còn nữa, vì cái hại của kẻ này là cái lợi của kẻ kia, cái lợi của người kia là cái hại của người nọ … không có cái gì thêm cho ai, bớt cho ai, lợi cho ai, vì tất cả là Một, và tất cả là Ta.

Nói một cách khác, nếu vẫn còn thấy có một cái Ta thì bất cứ làm gì chỉ có lợi cho Ta, cho gia đình Ta, cho bè bạn Ta, cho quốc gia Ta, cho dân tộc Ta mà có hại cho Ðoàn Thể không phải là Ta … đều là Ác cả . Nếu làm lợi cho tất cả mọi người …. thì mới gọi là Thiện. Ðịnh nghĩa được như thế, mới nhận thấy được cái phản “Liễu nghĩa” ( cái nghĩa rốt ráo, cùng ý tận nghĩa ) về Thiện Ác của Phật giáo.

Nhận xét về Thiện Ác, Phật giáo căn cứ vào tiêu chuẩn lợi và hại. Lợi cho tất cả, là Thiện ; lợi cho mình mà hại cho người là Ác. Bởi cái lý “Nhất đa tương dung” nên người tu Phật không bao giờ gây đau khổ cho ai tất cả .

Nhưng, cũng cần lưu ý đến điều này : theo Phật giáo cứ là làm việc gì … không nên căn cứ vào việc làm ấy mà phải căn cứ vào cái tâm của người làm việc ấy trước hết. Có khi là một việc mà thiên hạ, luân lý, đều cho là Ác, mà không Ác, là vì việc làm ấy phát ra do một thiện tâm, thiện ý cải thiện hay cứu rỗi. Cũng cùng một việc làm mà người này làm, sẽ được gọi là Thiện, còn người kia làm, lại bị xem là Ác.

“Thiện Ác” ( theo nghĩa thông thường ) cần phải được nhìn với cặp mắt đại đồng, cần phải xem như hai đứa trẻ sinh đôi cùng một vú mẹ, như một quả tim với hai buồng máu đỏ đen… Hay nói theo triết học Kinh Dịch : “Thiện Ác giống như cặp Âm Dương, tuy thấy như mâu thuẫn mà chẳng hề bao giờ rời nhau. Sở dĩ được gọi là Dương là vì phần Dương lấn phần Âm, được gọi là Âm là vì phần Âm lấn phần Dương. Thực ra không vật nào trên đời mà thuần Dương hay thuần Âm, cũng như không có gì thuần Ác hay thuần Thiện. Không có một đức tốt nào mà không bị đeo theo một tật xấu của nó.” Phải biết vượt lên trên cả Ác lẫn Thiện, thì mới mong siêu thoát luân hồi mà vào cảnh trí Niết Bàn . Tu ” Thiện nghiệp” để phá trừ “Ác nghiệp” lại được một số đông người học Phật cho là phương tiện để đi lần đến Phật Thừa.

Họ lầm và lầm to. Họ quên rằng muốn được giải thoát, muốn được vào Niết Bàn, phải vượt lên trên mọi cặp mâu thuẫn Thiện Ác mới cầu được Trí Tuệ Bát Nhã. Một cái ” Ngã” mà to lớn, tốt đẹp bao nhiêu, vẫn là cái “Ngã “, cũng như một sợi dây xích bằng sắt hay bằng vàng vẫn gọi là sợi dây xích. Nó vẫn ràng buộc, cột chặt con người trong vòng sinh tử luân hồi và đau khổ của họ.. Cả hai đều Mê lầm như nhau, cả hai đều bị màn Vô Minh và Ái, Thủ, Hữu… che lấp, bị tham, sân, si dày vò cau xé tâm hồn. Cho nên, tu “Thiện nghiệp “, tu cầu phúc… sẽ không bao giờ đưa đến giải thoát được !

Người ta vì không nhận rõ được cái chân lý ấy, nên thường tưởng lầm rằng “Tu” giải thoát, là lấy cái Thiện mà trừ cái Ác, không dè Thiện hay Ác đều do Vô Minh mà ra cả ( Ác là do lòng ích kỷ mà ra; thì Thiện cũng chỉ là một hình thức khác của ” ngã chấp “, tức là lòng nghĩ có mình ” autre forme subtile de l’égotisme” ) . Bị Ác nghiệp thì lăn trôi trong dòng sinh tử luân hồi nhưng được Thiện nghiệp, vẫn cũng bị lăn trôi trong dòng sinh tử luân hồi như người bị Ác nghiệp nào có khác gì ở phương diện bị bó mình trong nghiệp báo.

Tu Phật, là tu để chấm dứt dòng nhân quả nghiệp báo… là tu để chứng nhập Niết Bàn, nếu lại tu theo cách cầu phúc báo, tu theo Thiện nghiệp để rồi phải bị trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi, thì cái ” Tu” đó, là tu ” Ác đạo “.

Một nhà đạo học Ấn độ trứ danh hiện nay cũng cùng một nhận xét như trên khi ông nói : “Người đạo đức đầy đức tốt, cũng như người xấu xa đầy tật xấu đều không ai gần Chân Lý cả ; Gần Chân Lý là kẻ đã vượt thoát cả hai….. đừng tìm cách để mà tạo cho mình những đức tốt, mà phải tìm cho ra cái nguyên nhân của sự chia phân, tức là cái ngã thức… đừng lấy cái đức tốt này mà đả phá cái tật xấu kia ( nghĩa là đừng dùng một trong cặp mâu thuẩn Thiện Ác để chế trị lẫn nhau ), cũng đừng tìm cách lập lại quân bình giữa hai cái mâu thuẩn ấy, vì làm thế chỉ làm cho bên đối phương càng mạnh thêm lên . ( So sánh với lời này của Lão Tử : “Tương dục hấp chi, tất cố trương chi ; tương dục diệt chi, tất cố cường chi, tương dục phế chi, tất cố hưng chi ; tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi” ( Nghĩa là hòng muốn thu rút đó, lại sắp mở rộng cho đó ; hòng muốn làm yếu đó, là sắp làm cho đó mạnh lên; hòng muốn vứt bỏ đó, là sắp làm cho đó hưng khởi lên ; hòng muốn cướp đoạt đó, là sắp ban cho đó “Lão Tử Tinh Hoa, Tr 131-132 ).”

Cái mà gây ra những sự chống đối nhau, chính là lòng ích kỷ, là cái ý niệm chia phân. (Chia phân Thiện Ác của cái Tâm Sai biệt của mình). Cái đối lập cũng chứa đựng ngay cái phần mà nó đối lập, nghĩa là cái phần mà mình trốn tránh .

NDC

Sao lại dạy điều xấu, việc ác?

Trên chuyến bay từ Hà Nội vào TP HCM tôi đọc được truyện “Gốc tích cái nốt dưới cổ con trâu” trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, đăng trên một tờ tạp chí song ngữ.

Tôi thực sự thấy sốc. Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại tuyên truyền những truyện như thế? Lại còn dịch ra tiếng Anh cho bạn bè quốc tế đọc nữa.

Truyện kể rằng: Ngày xưa trâu và người nói cùng một thứ tiếng. Một người làm ruộng thuê một cậu bé chăn trâu. Do ham chơi, cậu bé không dắt trâu đi ăn, mà cột trâu lại một nơi rồi bỏ đi chơi khăng. Cuối ngày, để che mắt chủ, cậu lấy mo cau áp vào bụng trâu, trát bùn ra ngoài rồi dắt trâu về chuồng. Cậu khôn ngoan dùng lời lấp liếm, không cho trâu có dịp mở miệng. Nhưng đến một hôm, khi chủ dắt trâu đi cày, trâu mách. Chủ biết chuyện, đánh cho cậu bé một trận tả tơi. Cậu bé ngồi trên bờ ruộng khóc. Bỗng dưng một ông lão hiện ra, hỏi cậu vì cớ gì mà khóc. Cậu bé giải thích rồi bày tỏ mong muốn “làm thế nào trâu không nói được nữa”.

Ông lão bèn rút từ trong người ra một que hương, đốt lên rồi bất thình lình gí vào dưới cổ con trâu. Con trâu kêu oai oái, tiếng nói của trâu dần dần mất hẳn, chỉ còn “nghé ọ” được mà thôi. Chỗ bị thương sau này thành một cái nốt và từ đó trâu không còn nói được nữa.

Tôi sốc bởi trong truyện này, cậu bé chăn trâu là một kẻ xấu. Cậu lười lao động, khôn lỏi, gian dối với người và tàn nhẫn với trâu – loài động vật hiền lành, có ích. Ông lão (ông Bụt) khi biết chuyện đã không dạy bảo điều khôn, lẽ phải cho cậu, lại còn thương hại kẻ xấu mà ra tay làm điều ác với con trâu.

Chúng ta muốn dạy người Việt Nam điều gì qua truyện cổ tích phản giáo dục này, khi điều xấu, việc ác không những không bị lên án, mà còn được chia sẻ và tiếp tay? Tôi cũng nghi ngờ cả tính giáo dục của phần kết truyện Tấm Cám – kiệt tác cổ tích Việt Nam. Đành rằng Cám là người xấu, nhiều lần hãm hại Tấm, nhưng chúng ta có nên giáo dục các thế hệ trẻ em Việt Nam bằng chuyện Tấm xui Cám tắm nước nóng cho chết bỏng, rồi chặt xác Cám làm tám khúc, lấy thịt làm mắm gửi cho mẹ kế ăn?

Tôi tin rằng, chúng ta sẽ mong muốn có một cô Tấm biết kiềm chế và cư xử nhân đạo hơn với những người sai trái trong và ngoài gia đình. Chúng ta muốn con em mình vị tha và có ý thức pháp quyền hơn để biết bắt trói và giao nộp những kẻ trộm chó cho công an, thay vì thẳng tay đánh chết họ…

Đời sống kinh tế của nước ta ngày một cải thiện, nhưng đồng thời điều xấu, cái ác trong xã hội ta cũng ngày càng nhiều hơn, cuộc sống của mỗi người ngày càng có nhiều rủi ro hơn từ những người sống quanh mình. Nước nào ít nhiều cũng đều có tội phạm. Nhưng ở nước ta, trong những năm gần đây có rất nhiều vụ giết người vì những lý do lãng xẹt: vì “bọn nó dám sang làng ta tán gái”; vì “nhìn đểu”; vì va quệt xe máy; vì cãi nhau ở quán nước…

Tôi nghĩ, nhiều kẻ, sau khi đã gây án, cũng không thể hiểu nổi tại sao chúng lại giết người một cách vớ vẩn, ngu xuẩn đến như vậy. Đấy là nói về chuyện giết người, còn về những điều xấu, việc ác chưa đến mức giết người thì vô vàn, kể ra không xuể. Tôi chỉ có thể đặt nghi vấn về sự tích tụ cái ác quá nhiều ở những kẻ đó, nhiều đến mức chúng không còn nhận thức được về cái ác nữa.

Nelson Mandela từng nói rằng: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới”. Những câu chuyện cổ tích mang đầy “màu sắc báo thù” trên đây là sản phẩm của một xã hội sơ khai. Chúng đáng bị lãng quên từ lâu bởi những thông điệp trong đó đã không còn phù hợp với thời đại văn minh, pháp trị, nơi hành vi của con người được điều chỉnh bằng các quy định pháp luật.

Tôi cho rằng, cần phải rà soát lại những gì chúng ta dạy cho con em ở mọi hình thức và loại bỏ tất cả những gì vô tình tuyên truyền, cổ xúy cho điều xấu, việc ác.

Mỗi một thế hệ trẻ là một vụ mùa của đất nước. Hạt gieo xuống không được chăm sóc đúng cách thì không thể đòi hỏi những vụ mùa xanh tươi.

LHN

Ông tỷ phú và bài học từ cô bé nghèo

Một cô bé nghèo đói, mồ côi cha mẹ nhưng lại khiến một nhà tỷ phú rút ra được bài học đáng quý.

30 năm trước, vào một đêm đông lạnh, người vợ của một doanh nhân trong lúc sơ ý đã làm rơi ví ở bệnh viện. Vị doanh nhân đó vô cùng lo lắng liền đi tìm ngay trong đêm, bởi trong ví không chỉ có 10 triệu đô la Mỹ mà còn có thông tin cơ mật về thị trường vô cùng quan trọng.

Lúc chạy đến bệnh viện, ông nhìn thấy một cô bé gầy gò ốm yếu run run ngồi dựa vào sát tường ngoài hành lang yên tĩnh và đang ôm chặt cái ví mà chính vợ ông đã đánh rơi.

Cô bé có tên là Linh Linh, cô đến đây để chăm sóc mẹ đang bị bệnh, nhà chỉ có hai mẹ con nương tựa vào nhau, hoàn cảnh gia đình vô cùng khó khăn: thứ gì cần bán thì đều đã bán hết, số tiền gom góp lại cũng chỉ đủ tiền thuốc trong một đêm. Ngày mai, nếu không có tiền điều trị, mẹ con họ sẽ bị đuổi ra khỏi bệnh viện.

Mỗi tối, cô bé đi đi lại lại ngoài hành lang cầu nguyện, luôn mong có vị thượng đế phái một người tốt nào đó xuống để cứu giúp mẹ.

Đang đứng có một người phụ nữ đi qua hành lang và đánh rơi chiếc ví mà bà ấy không hề hay biết. Lúc đó, ngoài hành lang chỉ có một mình Linh Linh, cô bé vội vàng chạy lại nhặt chiếc ví rồi đuổi theo ra ngoài cổng nhưng không kịp, người phụ nữ đó đã lên xe và đi mất.

Cô bé quay về phòng mẹ, lúc cô mở chiếc ví ra, hai mẹ con đều kinh ngạc bởi những thứ có trong ví.

Cả hai mẹ con họ đều biết rằng với số tiền này có thể đủ thanh toán tiền viện phí cho mẹ cô bé nhưng người mẹ lại bảo cô bé mang chiếc ví quay lại hành lang rồi đợi người mất ví đến nhận.

Mẹ cô bảo rằng, người mất tiền nhất định đang rất lo lắng, việc nên làm ở đời đó là giúp đỡ người khác, lo cho sự lo lắng của người khác; việc không nên làm đó chính là ham tiền của bất chính, nhìn thấy tiền mà quên tình nghĩa.

Mặc dù nhà tỷ phú đã cố gắng hết sức giúp đỡ nhưng mẹ cô bé vẫn không qua khỏi được. Hai mẹ con họ không chỉ giúp vị doanh nhân tìm lại 10 triệu Đô la Mỹ mà quan trọng hơn đó là tìm lại được thông tin thị trường quan trọng đó, giúp cho việc kinh doanh của ông ta thành công mỹ mãn, không lâu sau thì trở thành tỷ phú.

Sau đó, cô bé được ông nhận nuôi, cô hoàn thành chương trình học Đại học và quay về giúp đỡ ông xử lý việc kinh doanh.

Mặc dù nhà tỷ phú không giao cho cô bất cứ trọng trách cụ thể nào nhưng trong thời gian học hỏi và rèn luyện, mọi kỹ năng kinh nghiệm cũng như trí tuệ của ông đã ảnh hưởng sâu sắc đến cô, giúp cô trở thành một nhân tài kinh doanh thành thục.

Lúc về già, làm bất cứ việc gì ông đều tham khảo ý kiến của cô. Trước lúc qua đời, ông có để lại một bức di chúc khiến mọi người đều kinh ngạc:

Trước khi quen hai mẹ con Linh Linh, tôi đã là một người có rất nhiều tiền. Nhưng khi gặp con bé và đứng trước giường bệnh của mẹ cô bé, tôi nhận ra rằng hai mẹ con họ là người giàu có nhất, bởi tấm lòng của họ đã đạt đến tiêu chuẩn làm người mà không ai với tới được, đó chính là cái mà một doanh nhân như tôi còn thiếu sót nhiều nhất. Họ giúp tôi tỉnh ngộ rằng tài sản lớn nhất của con người chính là nhân phẩm.

Tôi nhận nuôi Linh Linh không phải là để báo đáp ơn huệ, cũng không phải là tôi đồng cảm với họ mà là vì muốn mời một hình mẫu về cách làm người. Có nó bên cạnh, việc kinh doanh trên thị trường tôi có thể nắm bắt nhanh chóng, những việc gì nên làm, những việc gì không nên làm, tiền gì nên và tiền gì không nên kiếm.

Đó chính là nguyên nhân chủ chốt giúp sự nghiệp của tôi đạt đến sự hưng thịnh sau này, và tôi đã trở thành một nhà tỷ phú. Sau khi tôi đi, toàn bộ gia sản sẽ do Linh Linh kế thừa, như vậy, sự nghiệp của tôi sẽ tiếp tục hưng thịnh, ngày càng đạt đến đỉnh cao thành công. Tôi đặc biệt tin tưởng rằng, đứa con trai thông minh của tôi sẽ hiểu được nỗi lòng của bố nó.

Khi con trai của ông từ nước ngoài trở về, anh ta liền đọc kỹ di chúc của bố rồi không một chút do dự liền ký tên vào tờ hiệp ước kế thừa tài sản: “Tôi đồng ý việc Linh Linh kế thừa toàn bộ gia sản của bố tôi, tôi chỉ có một yêu cầu là Linh Linh hãy làm vợ của tôi”.

Sau khi nhìn thấy con trai của bố nuôi ký tên, cô cũng cầm bút ký: “Tôi tiếp nhận toàn bộ tài sản của bố nuôi để lại, bao gồm cả con trai của ông”.

Đọc xong câu chuyện, bạn rút ra được điều gì không? Nếu bạn lạnh nhạt với người khác, họ cũng sẽ lạnh nhạt với bạn như vậy; nếu bạn thường xuyên phê bình người khác, bạn cũng sẽ nhận được nhiều sự phê bình như thế; nếu bạn thường ra ngoài với bộ mặt cau mày, nhăn nhó thì đương nhiên, người khác cũng sẽ không tươi cười với bạn; tất cả đều có luật nhân quả.

Chỉ cần bạn luôn nỗ lực làm người tốt, bạn nhất định sẽ được báo đáp. Những việc bạn cố gắng làm cho người khác thì cũng chính là làm cho bản thân mình, vì thế, bạn luôn mong muốn bản thân có được, trước tiên bạn nên làm cho người xung quanh bạn có được.

Nếu bạn luôn mong muốn có được những người bạn tốt thì trước tiên bạn phải hết lòng với bạn bè. Nếu bạn mong mình luôn được vui vẻ thì trước tiên hãy mang niềm vui ban phát cho người khác.

Giúp đỡ người khác chính là mở ra cho bản thân một con đường, cho bản thân thêm một cơ hội và cũng chính là cho người khác thêm một cơ hội. Sống trong đời nên bớt ích kỷ đi một chút, quan tâm đến người khác nhiều hơn, như vậy thế giới của chúng ta mới tràn đầy ánh sáng, tràn đầy niềm vui được.

Arendt: Chính trong cái trống rỗng của tư duy mà nảy sinh ra sự dữ

Triết lý có thể giúp chúng ta hiểu nạn khủng bố không?

Lúc nào trong sự dữ cũng có một huyền bí nào đó không giải thích được, và nó phải ở đó. Làm sao có thể tự cho mình có thể hiểu tất cả? Khi một người quyết định họ giết một người vô tội, thì chuyện xấu này đòi có một lý do. Sự dữ tuyệt đối, là cái phi lý có thể chiếm lĩnh con người. «Chính trong cái trống rỗng tư duy mà nảy sinh ra sự dữ», nữ triết gia người Do Thái Hannah Arendt đã viết. Như thế thúc đẩy chúng ta phải giữ lương tâm luôn tỉnh thức: Nếu triết lý không giải thích được nạn khủng bố thì nó có thể tìm tòi để hiểu ở mãnh đất nào đã sinh ra khủng bố, có nghĩa là các điểm yếu, sự mong manh của xã hội chúng ta, những kẽ hở qua đó bạo lực len vào. Có vẻ như chúng ta không sống nhiều «cơn sốc của các văn hóa» cho bằng «cơn sốc của sự kém văn hóa»: khi nói như vậy, tôi không nói văn hóa theo nghĩa ưu tú hay hời hợt bên ngoài. Văn hóa là cái gì thiết yếu nhất nơi con người: và sự nghèo nàn của nó sản xuất ra cơn khủng hoảng mà chúng ta đang sống, sự khó khăn khi nói chuyện chung với nhau, sự dửng dưng làm cô lập chúng ta, sự không có khả năng đối thoại  – trong khi lời nói là trọng tâm cho sự điều hành của tất cả mọi nền dân chủ. Khi các sự không biết tương tác qua về trong xã hội, mọi sự bất đồng trở nên nguồn của bạo lực, và con người gần như trở nên thiếu tình người. Thách thức của xã hội chúng ta là đi ra khỏi cơn sốc kém văn hóa, và muốn làm như vậy thì phải tái chinh phục lại lời – kể cả lời trước công chúng, mà sự rút tủy là cả một vấn đề chính trị.

Chúng ta có thể tự an ủi cho sự bất công khi nói ai làm sự dữ thì chính người đó bất hạnh?

Phải nghĩ đến điều ngược lại: nếu không nhục nhã, không hối hận, không ngại ngùng đắn đo, cũng không biết chuyện gì gây bức rức trong lòng, không ngăn chặn được thủ phạm vui về lỗi của mình, thì khi đó chúng ta lại đứng trước một chuyện bê bối khác. Nhưng thực chất của triết lý được sinh ra từ ý tưởng của một đời sống hạnh phúc, mà người Hy Lạp gọi là đời sống tốt. Vậy, chính họ cũng là nạn nhân của sự bức bách và bạo lực, theo Platon, triết gia Socrate khẳng định một xác quyết rất quan trọng: thà chịu bất công còn hơn phạm bất công. Đương nhiên, nghe câu này thì thật cực kỳ choáng khi ngày nay khẳng định như thế, khi chúng ta thấy những người vô tội bị giết chẳng có lý do, chỉ vì họ là người Pháp, người Mỹ, người đồng tính hay cảnh sát. Thật là bất công và thật là tàn bạo… Thế mà triết lý có thể giúp chúng ta không đáp trả bất công bằng cách mình phạm bất công, chọn điều tốt thay vì trả thù. Đó là một chọn lựa anh hùng – vì chính chọn lựa này xây dựng cho nền tảng dân chủ: muốn thảo luận với các người phản biện mình, chứ không phải sự thinh lặng của họ; muốn công chính khi bị tấn công chứ không muốn trả thù; muốn hòa bình, và không muốn quyền lực, tất cả những chuyện này đòi hỏi một sự can đảm vô biên. Nhưng đi xong được con đường này thì có hạnh phúc nhiều hơn là bạo lực, bạo lực chẳng dẫn đến được gì.

Các tôn giáo có phải là nguồn của các sự dữ của con người?

Thật phi ý khi khẳng định tôn giáo là nguyên do của tất cả sự dữ, nhưng cũng phi lý khi nói tôn giáo chẳng có nguyên do gì trong những gì đang xảy ra cho chúng ta. Kitô giáo đã cố gắng để có một đối thoại với lý tính, nhất là tiếp cận với triết lý có trước nó. Chủ nghĩa tận căn là từ chối sự cố gắng này của lý tính. Hồi giáo phải nhận biết sự tự lập của lý tính là điều thiết yếu, dù nhân danh tôn giáo. Vì, như triết gia Pascal đã nói, lý tính đích thực sáng suốt sẽ nhận biết mình không thể hiểu tất cả: và khi nó đi đến tận cùng tiến trình của mình, nó sẽ nhận biết lựa chọn tin hay không tin. Vì không tin, cũng là một lựa chọn, mà không có gì hiển nhiên.

Ông có nói ngày nay chúng ta có thể lạc quan?

Đối với tôi, câu thần chú «rồi sẽ tốt hơn» là hoàn toàn không đúng chỗ khi đời sống của nhiều người càng ngày càng gay go hơn… Thực tế của bất công và bạo lực bắt chúng ta phải cấm mình không được thỏa mãn với một chủ nghĩa lạc quan dễ dãi và hời hợt. Nhưng nếu nó sẽ không tốt hơn thì đây là lúc để hy vọng! Khi xã hội chúng ta gần như khép mình trong thế giới đang đi, trong lợi ích của sự ngay lập tức, thì lúc đó chính trị giảm thiểu xuống còn những câu ngăn ngắn và khi các thảo luận rơi vào sự lên án kịch liệt, thì dù vậy, chúng ta cũng thấy đâu đâu cũng có dấu hiệu của một sự khát khao vô cùng của suy tư, của chiều sâu, của đối thoại. Tôi thấy một dấu hiệu hy vọng, chẳng hạn, trong sự thành công của các Buổi tối Triết học mà chúng tôi tổ chức hai lần mỗi tháng ở Nhà Kịch nghệ của tác phẩm ở Paris. Từ ba năm nay, có 400 người đến các buổi gặp gỡ này không kèn không trống, không quảng cáo… Cái khát cần có một độ lùi, cần suy tư cho thấy khắp nơi trong xã hội chúng ta; và đó cũng là trường hợp ở trường học: ở đó chúng ta không thể thật sự nói rồi sẽ tốt hơn, nhưng là ngược lại. Rất khó để lạc quan… Nhưng dù cho có khó khăn, dù cho các lỗi lầm tập thể của chúng ta, cái khát học hỏi của học sinh đủ để chúng ta tiếp tục hy vọng!

Tín Điều Về Mẹ

 

“Những lần Mẹ hiện ra” từ thế kỷ 19 là dấu hiệu thứ nhất chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria. Dấu hiệu thứ hai chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria, đó là, cũng từ thế kỷ 19 trở đi, ba tín điều về Mẹ Maria đã được Giáo Hôi chính thức tuyên tín. Trong khi đó, 18 thế kỷ trước, chỉ có một tín điều duy nhất về Mẹ là tín điều Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội tuyên tín vào năm 431 ở công đồng chung Êphêsô mà thôi.

 

Vào thời kỳ ấy, thời công đồng Êphêsô, có một vị linh mục tên Anastasiô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) của Mẹ, và chỉ công nhận Mẹ là Mẹ của Chúa Kitô (Khristotokos).Chính Nestôriô là thượng phụ Constantinôpôli năm 428 cũng chấp nhận như vậy, tức công nhận Chúa Kitô có hai Ngôi Vị, một thần linh và một nhân loại. Dựa vào bức thư thứ hai trong ba bức thư của thánh Giáo Phụ Cyrilô Alexandria gửi cho Nestôriô, các nghị phụ tham dự công đồng chung này, vào ngày 22-6-431, đã tuyên tín như sau:

 

“Không phải Ngôi Lời đã từ trời xuống ở với một phàm nhân được Trinh Nữ Thánh sinh ra đầu tiên; mà là, vì nên một với xác thể trong lòng (của Trinh Nữ Thánh), Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác thể, như là việc sinh ra theo xác thể của mình… Bởi thế, (các giáo phụ) đã không ngại gọi Trinh Nữ Thánh là ‘Mẹ Thiên Chúa’ (Theotokos). Điều này không có nghĩa là bản tính của Ngôi Lời hay Thiên Tính của Ngài đã được bắt đầu hiện hữu từ Trinh Nữ Thánh, mà là, vì Thánh Thể được sinh động bởi hồn thiêng, mà Ngôi Lời đã ngôi hiệp (kath’hupostasin) với chính mình, được sinh ra bởi Người, nên Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác thể” (TCF:148-149).

 

Và, cũng bắt đầu từ đó, Giáo Hội đã dạy cho con cái mình cầu nguyện cùng Mẹ:

 

“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.

 

Tuy nhiên, việc Giáo Hội tuyên tín Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, một tín điều duy nhất trong suốt 18 thế kỷ đầu của Giáo Hội, là một việc không thể nào không làm để chống lại những sai lầm của lạc thuyết Nestôriô, một lạc thuyết đã tác hại ghê gớm đến đức tin và phần rỗi đời đời của các tín hữu. Trong khi đó, từ bán thế kỷ thứ 19, trong vòng có 110 năm (1954-1964), Giáo Hội đã tự cảm thấy, (chứ không phải vì ngoại cảnh bắt buộc), đến lúc cần phải công bố thêm 3 tín điều về Mẹ nữa, đó là tín điều Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác và Mẹ Là Mẹ Của Giáo Hội.

 

TÍN ĐIỀU MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI.

 

Đức Thánh Cha Piô IX, bằng trọng sắc Ineffabilis Deus, đã long trọng tuyên bố tín điều này vào ngày 8/12/1854, (sau đó hơn 3 năm, ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã công nhận tín điều này khi hiện ra với chị thánh Bernadette tự xưng mình là “Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội”).

 

Với uy quyền của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, cũng như của riêng Ta, Ta công bố, tuyên ngôn và xác nhận tín điều được mạc khải bởi Thiên Chúa buộc mọi tín hữu phải tin vững vàng và trung kiên là “Rất Thánh Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu thai, nhờ đặc ân của Thiên Chúa toàn năng và công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì

vết của nguyên tội” (TCF:204).

 

TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI CẢ HỒN LẪN XÁC.

 

Qua tông hiến Munificentissimus Deus, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều này vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, 1-11-1950.Phải chăng, như ở Lộ Đức, Đức Mẹ đã hiện ra để xác nhận tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Thánh Cha Piô IX công bố thế nào, Mẹ cũng tỏ ra xác nhận tín điều Hồn Xác Lên Trời về Mẹ do Đức Thánh Cha Piô XII công bố như vậy, khi cho ngài thấy bốn lần, vào những ngày 30 và 31 tháng 10 và ngày 1 và 8 tháng 11 năm 1950 (TWTAF3:284-287), hiện tượng mặt trời nhẩy múa như ở Fatima ngày 13-10-1917 trước kia?

 

Đức Thánh Cha Piô XII đã ban bố tín điều này như sau:

 

“Ta tuyên xưng, công bố và xác nhận tín điều được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria trinh nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn lẫn xác của Người đã được đưa về trời trong vinh quang thiên quốc” (TCF:207).

 

TUYÊN XƯNG MẸ LÀ MẸ CỦA GIÁO HỘI.

 

Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong dịp kết thúc kỳ họp ba của công đồng chung Vaticanô II, cũng là dịp hiến chế về Giáo Hội Lumen Gentium được công bố, trước mặt toàn thể các nghị phụ của công đồng, đã chính thức tuyên bố:

 

“Ta mong muốn Mẹ Thiên Chúa phải được cả thế giới Kitô hữu tôn vinh và khẩn cầu hơn nữa bằng tước hiệu (Mẹ Giáo Hội) tuyệt dịu ngọt này” (CTFY:88).

 

Trong dịp chính thức tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội này, Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng lập lại việc hiến dâng toàn thể thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, việc hiến dâng đã được Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện hai lần, một vào ngày 31-10-1942 và một vào ngày 7-7-1952.

 

Đức Thánh Cha Phaolô VI đã lập lại việc hiến dâng này như sau:

 

“Ta đã quyết định gửi một đại diện đến Fatima vào một ngày gần đây để mang Bông Hồng Bằng Vàng đến Đền Thánh Fatima, nơi yêu qúi hơn bao giờ hết, chẳng những đối với nhân dân của nước Bồ Đào Nha diễm phúc… mà còn được tín hữu trên khắp thế giới Công Giáo nhận biết và tôn kính. Bằng việc làm này, Ta có ý muốn phú thác cả gia đình nhân loại, với những hoạn nạn và âu lo của họ, với những ước vọng thâm sâu và hy vọng tha thiết của họ, cho sự chăm sóc của Mẹ thiên đình” (CTFY:88).

 

Ngoài ra, trong Thời Đại Maria này, Giáo Hội, qua Đức Thánh Cha Piô XII, cũng đã thực hiện hai việc liên quan trực tiếp đến Đức Mẹ nữa, đó là việc ngài cho mừng lễ Trái Tim Đức Mẹ trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ cũng như lập lễ Đức Mẹ Nữ Vương, và việc ngài phong hiển thánh cho hai vị Thánh của Mẹ, thánh Louis Marie Grignion De Monfort ngày 20/7/1947, và thánh Catarina Labuarê ngày 27/7/1947.

 

Lễ Trái Tim Đức Mẹ:

 

Thật ra, theo văn thư Acta Apostolicae Sedis của thánh bộ Lễ Nghi ban hành ngày 4/5/1944, lễ Trái Tim Đức Mẹ đã được bắt đầu mừng từ thời Trung Cổ và được Giáo Hội chấp nhận vào đầu thế kỷ thứ 19. Đức Thánh Cha Piô VII (1800-1823) đã cho phép các giáo phận hay dòng tu nào xin mừng lễ Khiết Tâm Mẹ sẽ được cử hành vào ngày Chúa Nhật sau tuần bát nhật Lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Sau đó, Lễ Trái Tim Mẹ được lan rộng khắp nơi, và Đức Thánh Cha Piô IX (1848-1878) đã chính thức cho vào niên lịch phụng vụ hằng năm của Giáo Hội.

 

Cho đến ngày 24/10/1940, chị Lucia đã viết thơ trình lên Đức Thánh Cha Piô XII điều “yêu cầu” của Mẹ liên quan đến việc Mẹ sẽ làm cho nước Nga trở lại, và cuối thơ chị có xin Đức Thánh Cha cho mừng chung trong Giáo Hội hoàn vũ lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ như là một trong những lễ chính.

 

Phần Đức Thánh Cha Piô XII, cũng trong văn thư của thánh bộ Lễ Nghi trên đây, “để ghi nhớ cuộc hiến dâng này, (cuộc hiến dâng Giáo Hội hoàn vũ và cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ mà Đức Thánh Cha đã thực hiện ngày 31/10/1942), Ngài đã quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Lễ này sẽ được cử hành mỗi năm vào ngày 22 tháng 8, thay ngày bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu, với bậc lễ hạng nhì…” (TWTAF3:82-83).

 

Lễ Mẹ Nữ Vương:

 

Lễ Mẹ Nữ Vương được Đức Thánh Cha Piô XII lập trong Năm Thánh Mẫu, vào ngày lễ Đức Mẹ Thiên Chúa 11/10/1954. Qua bức thông điệp Ad Coeli Reginam, Đức Thánh Cha nhắc lại việc đội triều thiên cho Mẹ năm 1946 và quyết định:

 

“Ta ban hành và thiết lập Lễ Maria Nữ Vương, được mừng chung Giáo Hội hằng năm vào ngày 31/5”.

 

Cũng trong thông điệp này, Đức Thánh Cha còn đề cập đến:

 

“Việc hiến dâng loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ phải được lập lại trong ngày này… Với niềm tin tưởng hơn trước, mọi người hãy đến với ngai tòa tình thương và ân sủng của Nữ Vương và Từ Mẫu để xin trợ giúp trong cơn quẫn bách, ánh sáng trong lúc tối đen, và sức mạnh trong lúc đau thương khóc lóc…” (TWTAF3:395).

 

Sau Công Đồng Chung Vaticanô II, theo tinh thần canh tân phụng vụ, một số Lễ kính Đức Mẹ cũng được thay đổi, trong đó có lễ Trái Tim Mẹ và lễ Mẹ Nữ Vương. Lễ Mẹ Nữ Vương được dời xuống ngày 22/8 thay vì 31/5 hằng năm, và lễ Trái Tim Mẹ được dời lên ngày Thứ Bảy ngay sát Thứ Sáu lễ Thánh Tâm Chúa trong tuần lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa.

 

Thánh Louis Marie Grignion De Monfort (1673-1716)

 

Thánh nhân là vị thánh lập hai dòng tu cho Giáo Hội, một nữ và một nam. Dòng nữ là dòng Nữ Tử Đấng Khôn Ngoan, được lập năm “3, và dòng nam là dòng Thừa Sai Mẹ Maria (cũng gọi là dòng các Linh Mục Và Huynh Đệ Thánh Monfort). Ngài cũng là tác giả của tác phẩm thời danh Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria, một tác phẩm mà chính ngài đã tiên đoán về số phận của nó: “Tôi thấy trước một cách r ràng là những con mãnh thú sẽ dùng nanh vuốt qủi quyệt của chúng để sâu xé bản văn nhỏ bé này… hay, ít là dấu nó đi trong bóng tối vắng lặng nào đó không lộ ra được” (TDTM,114). Quả nhiên, mãi đến năm 1842, cuốn sách này mới được một linh mục dòng của ngài tình cờ tìm thấy trong một thùng sách cũ ở tu viện Laurent- sur-Sèvre.

 

Đức Thánh Cha Piô XII đã nói về ngài khi phong thánh cho ngài như sau: “Sùng Kính Mẹ Maria là sức mạnh mãnh liệt trong công cuộc tông đồ của ngài và bí mật tuyệt diệu nhất của ngài trong việc lôi kéo các linh hồn và ban Chúa Giêsu cho họ” (TDTM:v).

 

Thánh Catarina Labuarê (1806-1876)

 

Nữ Thánh Nhân là chị nữ tu dòng Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh-Sơn Phao-Lô, được Đức Mẹ hiện ra vào năm 1830 và trao cho 3 sứ mệnh, như Đức Thánh Cha Piô XII đã nói về chị trong dịp phong thánh cho chị ngày 27/7/1947, đó là: “Phục hồi lòng sốt sắng đã bị nguội lạnh trong hai hội dòng bác ái của chị; nhận chìm toàn thể thế giới vào trận lụt đầy những mẫu ảnh kim loại nho nhỏ là những gì chứa đựng các ơn xót thương của Đấng Vô Nhiễm Tội ban cho cả hồn lẫn xác; lập một hội đạo đức ‘Con Cái Mẹ Maria’ để bảo toàn và thánh hóa giới phụ nữ trẻ” (TWTAF3:108).

 

Hai Á Thánh Thiếu Nhi Fatima Phanxicô và Giaxinta Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong Chân Phước cho Hai Thiếu Nhi Fatima là Phanxicô và Giaxinta ngày 13/5/2000.

Những tín điều về Mẹ Maria gồm có: tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa, tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh, tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, tín điều Mẹ Maria Mông Triệu Cả Hồn Lẫn Xác, và tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ  Giáo Hội. Để có một cái nhìn tổng quát và đầy đủ các tín điều hay tước hiệu về Mẹ Maria, xin trưng dẫn toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội theo thứ tự dưới đây.

Tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa được Công Đồng Chung Ephêsô tuyên tín năm 431 là:

“Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (theotokos) (vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt)”.

(DS 252 hay “The Christian Faith” trang 149)

Tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh được Công Đồng Latêran tuyên tín năm 649, như sau:

“Khốn cho những ai không theo các vị Nghị Phụ thánh đức tuyên xưng một cách chân thực và xác đáng rằng Đức Maria, trinh nguyên và vô nhiễm, là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã thực sự thụ thai chính Thiên Chúa Ngôi Lời, Đấng được Thiên Chúa Ngôi Cha hạ sinh trước các kỳ thời, bởi Chúa Thánh Thần mà không cần đến hạt giống loài người, và đã sinh ra Người hoàn toàn không bị hư hại gì, tình trạng đồng trinh của Mẹ sau khi sinh con cũng không hề bị sứt mẻ”.

(DS 503 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 166)

Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Piô IX long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng:

“Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”.

(DS 2803 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 204)

Tín điều Mẹ Maria Mông Triệu Cả Hồn Lẫn Xác được Đức Piô XII long trọng tuyên bố bằng tông hiến “Munificentissimus Deus” ngày Lễ Kính Các Thánh, 1/11/1950, như sau:

“Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn, và để toàn thể Giáo Hội hân hoan phấn khởi; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi công bố, tuyên xưng và xác nhận như là một tín điều được Thiên Chúa mạc khải: Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”.

(DS 3903 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 207)

Tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội được Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố ngay trong buổi họp Công Đồng Chung Vaticanô II để ban hành Hiến Chế Tín Lý về Bản Chất Giáo Hội Lumen Gentium (Anh Sáng Muôn Dân) vào ngày 21/11/1964, như sau:

“Khi chúng ta xét đến những liên hệ chặt chẽ gắn bó Đức Maria và Giáo Hội, như những mối liên hệ này đã được diễn đạt hết sức rõ ràng trong Hiến Chế Công Đồng này, những mối liên hệ khiến chúng ta phán quyết, trong giây phút rất long trọng này đây, đặc biệt rất thích đáng để làm mãn nguyện một ước vọng, một ước vọng chúng tôi bộc lộ ở vào lúc kết thúc buổi họp cuối này, và cũng là ước vọng của rất nhiều vị Nghị Phụ, khẩn khoản yêu cầu là trong Công Đồng đây, vai trò từ mẫu mà Đức Thánh Trinh Nữ Maria thực hiện đối với dân Kitô Giáo cần phải được công bố bằng những từ ngữ rõ ràng. Vì lý do này, chúng tôi thấy rằng, trong cuộc họp công khai này, chúng tôi phải chính thức công bố tước hiệu mà Đức Trinh Nữ Maria cần được tôn kính, tước hiệu đã được đệ xin từ nhiều nơi trong Giáo Hội hoàn vũ, và cũng là một tước hiệu đối với chúng tôi đáng chấp nhận và thỏa lòng cách đặc biệt; vì tước hiệu này mang lại một cách xác thực tuyệt vời vị trí hiển nhiên xứng hợp với Mẹ Thiên Chúa trong Giáo Hội được Công Đồng này đã công nhận. Bởi thế, để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này”.

(trích dịch từ “Theotokos”, by Michael O’Carroll, C.S.Sp, Michael Glazier, Inc., third revised edition, 1988, trang 251)

Nếu căn cứ vào kiểu cách Đức Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội này thì có khác gì với lần Đức Piô IX công bố tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội và lần Đức Piô XII công bố tín điều Mẹ Maria Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác. Vì Đức Phaolô VI cũng dùng đến quyền bính tối cao của mình, chẳng những “công bố Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” mà còn “truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo” phải “kính tôn” Mẹ và “cầu nguyện” với Mẹ “bằng tên gọi rất ngọt ngào này” nữa. Và việc Đức Phaolô VI đã “công bố” và “truyền” làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa. Nếu “Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” được thẩm quyền tối cao của Giáo Hội công bố một cách long trọng chưa từng có như thế, thì điều công bố này lại có thể sai lầm được chăng, và có thể phủ nhận và không đáng tin chăng? Do đó, “Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội”, theo cách thức và ngôn từ công bố của Đức Phaolô VI, cũng có thể mang một tính chất quan trọng và thiết yếu như các Tín Điều Thánh Mẫu chính thức khác.

Bản Tuyên Xưng Đức Tin do Thánh Bộ Phụ Trách Tín Lý Đức Tin phác họa và phổ biến ngày 9/1/1989 cho các vị có trách nhiệm liên quan đến các chân lý đức tin và luân lý, có đoạn thứ hai về việc:

“Tôi phải lấy cả ý muốn lẫn trí khôn thuận phục các giáo huấn do Giáo Hoàng hay Giám Mục Đoàn công bố khi các ngài thực hành Huấn Quyền chính thức của mình, cho dù các ngài không có ý công bố những giáo huấn này bằng một hành động dứt khoát” (đoạn 2, Tông Thư Motu Proprio: “Ad Tuendam Fidem” của ĐTC Gioan Phaolô II, L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ, số 28/1550, 15/7/1998).

Nếu căn cứ vào đoạn thứ hai của Bản Tuyên Xưng trên đây, thì việc Đức Thánh Cha Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội, một tước hiệu nói lên chính thực tại của vai trò Mẹ Maria thực sự là Mẹ của Giáo Hội, cũng là một đối tượng của Đức Tin, như các Tín Điều Thánh Mẫu khác.

Giáo lý Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc, tuy chưa được Giáo Hội chính thức long trọng tuyên bố như các tín điều trên đây, tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô II cũng đã công nhận và trình bày vai trò cộng tác của Mẹ trong dự án cứu độ của Thiên Chúa cũng như trong công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, qua bài giáo lý (trong loạt 70 bài vào thời khoảng 6/9/1995-12/11/1997) về Mẹ, hôm Thứ Tư ngày 9/4/1997, như sau:

“Từ ngữ ‘cộng tác viên’ áp dụng cho Mẹ Maria đòi có một ý nghĩa đặc biệt. Việc các tín hữu cộng tác trong ơn cứu chuộc xẩy ra sau biến cố Canvê, một biến cố sinh hoa kết trái do nỗ lực nguyện cầu và hy sinh của họ. Còn Mẹ Maria đã cộng tác trong chính biến cố này và với vai trò làm mẹ; bởi thế, việc cộng tác của Mẹ bao hàm toàn thể công cuộc cứu độ của Chúa Kitô. Chỉ có một mình Mẹ đã được liên kết vào hiến tế cứu chuộc bằng cách này, một hiến tế mang ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Hiệp nhất với Chúa Kitô và tùy thuộc vào Người, Mẹ đã hợp tác để chiếm lấy ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Vai trò làm cộng sự viên của Đức Trinh Nữ bắt nguồn từ thiên mẫu chức của Mẹ… Việc cộng tác đặc thù của Mẹ Maria vào dự án cứu độ có một ý nghĩa như thế nào? Điều này cần phải tìm thấy nơi ý định đặc biệt của Thiên Chúa đối với Mẹ Chúa Cứu Thế, nhân vật mà vào hai trường hợp, một ở tiệc cưới Cana và một ở chân Thập Giá, Chúa Giêsu đã ngỏ lời như với một ‘Bà’ (x.Jn.2:4;19:26). Mẹ Maria đã liên kết trong công cuộc cứu chuộc như một người đàn bà. Tạo dựng nên con người ‘có nam có nữ’ (x.Gn.1:27), Chúa cũng muốn đặt một Tân Evà bên cạnh một Tân Adong trong việc cứu độ. Cha mẹ đầu tiên của chúng ta đã chọn con đường tội lỗi như là một cặp vợ chồng; Con Thiên Chúa và việc cộng tác của Mẹ Người cũng có nhau để tái thiết lập giòng giống loài người theo phẩm giá nguyên thủy của nó… Công Đồng đã nghĩ đến vấn đề tín lý này và nhận làm của mình khi nhấn mạnh đến việc đóng góp của Đức Trinh Nữ chẳng những vào việc hạ sinh Đấng Cứu Thế, mà còn vào sự sống của Nhiệm Thể Người nữa qua các thế hệ cho đến lúc ‘cánh chung’: nơi Giáo Hội Mẹ Maria ‘đã cộng tác’ (x.Lumen Gentium, đoạn 63) và Mẹ đã ‘cộng tác’ trong công cuộc cứu độ (cùng nguồn, đoạn 53)… Hơn nữa, Công Đồng Chung Vaticanô II trình bày Mẹ Maria chẳng những như ‘Mẹ của Đấng Cứu Chuộc thần linh’, mà còn là ‘cộng tác viên quảng đại một cách đặc biệt’, Mẹ ‘đã cộng tác bằng đức tuân phục của Mẹ, bằng đức tin, đức cậy và đức mến bừng cháy của Mẹ trong công cuộc của Chúa Cứu Thế’. Công Đồng còn nhắc lại rằng hoa trái cao qúi của việc cộng tác này là thiên chức làm mẹ phổ quát của Mẹ: ‘Vì lý do này, Mẹ là mẹ của chúng ta theo trật tự ân sủng’”

(L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ, số 16/1487, 16-4-1997, trang 7)

Đã có 500 vị giám mục, 40 vị hồng y và mấy triệu tín hữu, trong đó có Mẹ Têrêsa Calcutta, đồng ký tên đệ trình Đức Thánh Cha để xin ngài công bố tín điều Mẹ Maria Là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, Là Đấng Trung Gian An Sủng và Là Đấng Biện Hộ Cho Dân Chúa. Nếu Biến Cố Paris và Lộ Đức liên quan đến tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội thì tước hiệu và tác dụng thần năng vô địch của tước hiệu “Ta là Đức Mẹ Mân Côi” trong Biến Cố Fatima cũng rất có thể sẽ liên quan đến tín điều Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc. Biết đâu việc công bố Tín Điều Thánh Mẫu cuối cùng này nằm ở trong Bí Mật Fatima phần thứ ba, phần chỉ có Đức Thánh Cha được đọc, tức phần thuộc về phần nhiệm của riêng ngài, nên không một vị giáo hoàng nào (Gioan XXIII, Phaolô VI và Gioan Phaolô II) sau khi xem xong đã cảm thấy cần phải công bố nội dung của nó.

Trong năm tín điều này, hai tín điều đầu được Giáo Hội tuyên tín cách nhau 118 năm, còn ba tín điều tiếp theo lại được thẩm quyền Giáo Hoàng, chỉ trong thời khoảng 110 năm. Sở dĩ ba tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời và Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội là “dấu chỉ thời đại” cho Thời Điểm Maria là vì, so với hai tín điều đầu, Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh, Giáo Hội chỉ tuyên tín khi có lạc giáo mà thôi, trong khi ba tín điều sau là do Giáo Hội tự động “nhận biết và yêu mến Mẹ”.

Chẳng hạn như tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa được tuyên tín là vì lạc thuyết Lưỡng Ngôi, một lạc thuyết được khai triển thêm bởi vị thượng phụ giáo chủ (từ năm 428) ở Antiôkia là Nestôriô (?-450), thành lạc thuyết Nestorianism, chủ trương Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Kitô (khristotokos) mà thôi, chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa (theotokos), vì theo Nestoriô, Đức Kitô là một con người được kết hợp với thần tính của Ngôi Lời Thiên Chúa, và Ngôi Lời Thiên Chúa ở nơi Đức Kitô “như ở trong một đền thờ”.

Trường hợp tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh cũng thế, Giáo Hội tuyên tín vào dịp phi bác lạc thuyết Nhất Ý (Monothelitism), một lạc thuyết biến thiên từ lạc thuyết Nhất Tính (Monophysitism) nơi Chúa Giêsu Kitô. Theo lạc thuyết Nhất Tính, như Eutyches (378-454), một đan sĩ ở Contantinôpôli đã chấp nhận và hết mình ủng hộ, chủ trương rằng nhân tính của Chúa Giêsu Kitô bị tiêu biến trong thần tính của Người khi hiệp nhất với thần tính, do đó, nơi Người chỉ còn lại một bản tính duy nhất. Còn theo lạc thuyết Nhất Ý, do vị thượng phụ giáo chủ Contantinôpôli (610-638 AD) là Sergius chủ trương, với mục đích nhằm tái hợp các giáo hội đang bị phân rẽ vì lạc thuyết Nhất Tính, thì ông công nhận Chúa Giêsu Kitô có cả hai bản tính, thần tính và nhân tính, tuy nhiên, ông lại cho rằng, nơi Người chỉ có một hành động duy nhất (mono-energism) và chỉ có một ý muốn duy nhất (monothelitism). Nếu nơi Chúa Giêsu Kitô chỉ có một hành động và một ý muốn duy nhất như Sergius quan niệm như thế, thì ông vẫn mặc nhiên cho rằng Người chỉ có duy một bản tính chứ không phải có hai bản tính. Trong bản phi bác lạc thuyết Nhất Ý của Sergius này, Công Đồng Lateranô năm 649 đã dành riêng khoản thứ 3 (trong 16 khoản), một khoản liên quan trực tiếp đến tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh như đã được trích dẫn trên đây.

Trong khi hai Tín Điều Thánh Mẫu đầu tiên là tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa và tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh được Giáo Hội tuyên tín chỉ vì có trường hợp lạc thuyết để bảo vệ Đức Tin Tông Truyền của Giáo Hội, bằng những thành ngữ nghiêm trọng “tuyệt thông cho những ai” hay “khốn cho những ai”, thì ba Tín Điều Thánh Mẫu còn lại là tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời và Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội lại được Giáo Hội tự động công bố như chỉ để tỏ ra “nhận biết và yêu mến Mẹ”, được diễn tả qua các thành ngữ “để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa”, hay “để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn” hoặc “để vinh danh Đức Trinh Nữ”, đúng như lời tiên đoán của thánh Louis Grignion de Montfort đã được nhắc đến từ đầu:

“Vào lần đến lần thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria phải được Thánh Linh làm cho nhận biết và tỏ hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô cũng được nhận biết, mến yêu và phục vụ”.

Như thế, Thời Điểm Maria, đúng như Mẹ đã tiết lộ ở Bí Mật Fatima phần thứ hai, là thời điểm “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, tức đối với thành phần con cái cưng yêu của Mẹ, như Mẹ đã nói về thân phận của riêng thiếu nhi Lucia trong lần hiện ra thứ hai, 13/6/1917, là Thời Điểm “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”.

CTT