Home Blog Page 495

Kinh Thánh Nói Về Mẹ

 

Mt1:12 16 12 Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven;13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do;14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút;15 Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp;16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.

Mt1:18-25  18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giácbà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.”24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.25 Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

Lc1:26-56 26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30 Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” 34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! ”

35 Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” 38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

 

Đức Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

 

Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat)

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

47 thần trí tôi hớn hở vui mừng

vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

48 Phận nữ tỳ hèn mọn,

Người đoái thương nhìn tới;

từ nay, hết mọi đời

sẽ khen tôi diễm phúc.

49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi

biết bao điều cao cả,

danh Người thật chí thánh chí tôn!

50 Đời nọ tới đời kia,

Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,

55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,

vì Người nhớ lại lòng thương xót

dành cho tổ phụ Áp-ra-ham

và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

Lc2:1-20 1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri.3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít.5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai.6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.10 Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân:11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

14 “Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

15 Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.”16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

Mt2:7-23  7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.”9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

13 Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! “14 Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.15 Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

19 Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập,20 báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.”21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en.22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê,23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.

Lc 2:21-52 21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”,24và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người,28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

Bài ca “An Bình Ra Đi” (Nunc dimittis)

29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây

theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”

33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người.34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng;35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”

 

41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua.42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết.44 Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.

46 Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi.47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.48 Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! “49 Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? “50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.

51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.

Lc8:19-21 19 Mẹ và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông.20 Người ta báo cho Người biết: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.”21 Người đáp lại: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”

Tiệc cưới Ca-na

Ga 2:1-121 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự.3 Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi.”4 Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.”5 Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”

6 Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.7 Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! ” Và họ đổ đầy tới miệng.8 Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông.9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại10 và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.12 Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại đó ít ngày.

Ga6:41-44  41 Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.”42 Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống? “43Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.

Ga19:25-27 25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”27 Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.

Mt13:53-58  53 Khi Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó.54 Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?55 Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao?56 Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? “57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.”58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.

Công Vụ 1:12-14 12 Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát.13 Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê.14 Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.

Kh1:1-18 1 Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao.2 Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con.3 Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện.4 Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.5 Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người.6 Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.

7 Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến.8 Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa.9 Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.10 Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời:

 

“Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,

giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền,

và Đức Ki-tô của Người

giờ đây cũng biểu dương quyền bính,

vì kẻ tố cáo anh em của ta,

ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,

nay bị tống ra ngoài.

11 Họ đã thắng được nó nhờ máu Con Chiên

và nhờ lời họ làm chứng về Đức Ki-tô:

họ coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết.

12 Nào thiên quốc cùng chư vị ở chốn thiên đình,

hãy vì đó mà mừng vui hoan hỷ!

Khốn cho đất và biển, vì ma quỷ đã xuống với các ngươi,

nó giận điên lên vì biết rằng nó chỉ còn một ít thời gian.”

 

13 Khi Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai.14 Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa mạc, vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa thời, ở xa Con Rắn.15 Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đằng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi.16 Nhưng đất cứu giúp bà: đất há miệng ra uống cạn dòng sông từ miệng Con Mãng Xà phun ra.17 Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giê-su.18 Rồi nó đứng trên bãi cát ngoài biển.

 

 

Người trẻ ngày nay

Người trẻ ngày nay

Một chủng sinh tôi mới quen biết, kể cho tôi nghe về hôm thầy dự một buổi tiệc tối thứ sáu ở trường đại học địa phương. Nhóm này gồm những thanh niên đại học trẻ tuổi, và anh bạn của tôi giới thiệu mình là một chủng sinh, một người nỗ lực để trở thành linh mục và khấn hứa sống đời độc thân khiết tịnh. Khi nghe đến độc thân khiết tịnh, một số cười khúc khích, số khác giễu cợt, và nhiều lời đùa rằng anh sẽ phải bỏ mất biết bao nhiêu thứ trong đời. Thật là ngây thơ, tội nghiệp! Ban đầu, trong nhóm 8x9x này, niềm tin lòng đạo và những gì dẫn dắt anh chủng sinh muốn sống cuộc đời của mình, được xem là một chuyện vừa buồn cười vừa tội nghiệp. Nhưng trước khi tàn tiệc, một vài cô gái trẻ đến, khóc trên vai anh và chia sẻ về sự thất vọng với việc bạn trai mình không thể hoàn toàn tận tâm trong mối quan hệ.

Điều này có thể cho chúng ta một mô tả về người trẻ trong thế giới thế tục hóa thời nay của chúng ta. Họ thể hiện cái gọi là tính cách lưỡng cực về đức tin, giáo hội, gia đình, luân lý tình dục, và nhiều đều khác quan trọng với họ.

Họ cho chúng ta một hình ảnh mâu thuẫn. Một mặt, nhìn chung, họ không đi lễ, ít nhất là không đều đặn, họ không giữ đạo đức Kitô giáo về tình dục, dường như lãnh đạm và có khi thù địch với nhiều truyền thống quý báu trong đạo, và họ có thể thiển cận không thể tin nổi khi nghiện ngập và bị nô lệ hóa trong luồng thời thượng của thế giới giải trí, thời trang và công nghệ thông tin. Nhìn từ phương diện này, đám trẻ của chúng ta có vẻ không có đạo, suy đồi đạo đức, và vùi đầu vào những thứ hời hợt của các show truyền hình và trò chơi điện tử.  Nghiêm trọng hơn nữa, các em còn có thể có vẻ thiển cận, tham lam, hư hỏng, và tư lợi quá đáng. Thật là một viễn cảnh không sáng sủa gì trước mắt chúng ta.

Nhưng không hoàn toàn chính xác như vậy. Trong hầu hết trường hợp, phía dưới bề mặt, các bạn sẽ thấy một con người dễ mến, chân thành, dịu dàng, thiện tâm, tử tế, đạo đức, quảng đại và tìm kiếm những gì đúng đắn (mà không có nhiều hỗ trợ từ một nền văn hóa thiếu chỉ hướng đạo đức rõ ràng và đầy nguy cơ với quá nhiều chọn lựa). Tin tốt là, hầu hết người trẻ,với những khao khát thật nhất trong mình, hoàn toàn không xa lạ với Thiên Chúa, đức tin, giáo hội và gia đình. Xét chung, người trẻ ngày nay vẫn là người tốt và muốn điều đúng đắn.

Nhưng, không phải lúc nào cũng rõ ràng như thế. Có khi vẻ ngoài dường như lấn át chiều sâu của người trẻ đến nỗi con người thật của các em và những gì các em muốn không thật sự rõ ràng. Chúng ta thấy vẻ ngoài, và qua đó, thấy người trẻ có vẻ tư lợi hơn là quảng đại, hời hợt hơn là sâu sắc, bừa bãi hơn là nhạy bén về đạo đức, và lãnh đạm với đạo hơn là đầy đức tin. Người trẻ cũng thể hiện một sự tự phụ thiển cận, cho rằng mình khó mà bị tổn thương và không cần bất kỳ ai khác hướng dẫn.

Mà chính vì thế, người trẻ đang trong tình trạng lưỡng cực. Hầu như, các em muốn những điều đúng đắn, nhưng quá thường xuyên vì thiếu sự hướng dẫn thực sự và vì nền văn hóa bao quanh, mà người trẻ không đưa ra những chọn lựa đem lại những gì đúng với các khao khát sâu thẳm hơn trong lòng mình. Ví dụ hàng đầu là về tình dục. Các nghiên cứu trên giới trẻ 8x và 9x cho thấy hầu hết các em mong muốn cuối cùng có được một cuộc hôn nhân chung thủy một vợ một chồng. Vấn đề là các em cũng tin rằng trước hết mình có thể sống mười hay mười lăm năm tình dục tự thoải mái, mà không chấp nhận rằng mười hay mười lăm năm tình dục không phải là một chuẩn bị tốt cho sự chung thủy nâng đỡ hôn nhân và gia đình. Trong chuyện này, cũng như nhiều chuyện khác, các em bị kẹt giữa đặc nét văn hóa và sự an toàn mỏng manh của mình. Văn hóa cứ xướng lên một đặc nét nhất định, giải phóng khỏi những tỉ mẩn của quá khứ, hoàn toàn tự mãn xem thường bất kỳ điều gì chất vấn nó Nhưng nhiều sự tự mãn như thế thực sự đang sa vào bóng tối. Sâu bên trong, người trẻ của chúng ta khá dao động, và may thay, chính điều này giữ các em yếu đuối và dễ thương.

Có lẽ Louis Dupre, triết gia đã dạy tôi vài năm ở Yale, trình bày rõ nhất điều này khi ông nói rằng người trẻ ngày nay không xấu, chỉ là chưa hoàn thiện.  Đây là một thấu suốt đơn giản mà nhiều ý nghĩa. Có người có thể rất tuyệt vời và dễ thương, nhưng vẫn thiếu chính chắn, chưa trưởng thành. Hơn nữa, nếu bạn đủ trẻ, như thế bạn có thể rất hấp dẫn, rất ngầu. Và ngược lại, thường cũng như thế. Nhiều người trưởng thành chúng ta, bị giày vò vì tính lưỡng cực của chính mình, khi chúng ta chính chắn trưởng thành nhưng lại không tuyệt vời và dễ thương. Điều này gây nên những song đề nghịch lý.

Vậy người trẻ ngày nay thực sự là thế nào? Là con người luôn luôn gói kín trong thế giới của riêng mình, bị ám ảnh về ngoại hình, ham mê đến nghiện truyền thông xã hội, sống ngoài hôn nhân, tự mãn thiển cận về đạo đức phi truyền thống và quan điểm tôn giáo của mình ư? Tôi tin rằng, đó chỉ là mặt bề ngoài. Người trẻ ngày nay thực sự đầy nồng hậu, thiện tâm, quảng đại và mong đợi có ý thức một tình yêu và kết ước, cũng như mong đợi trong vô thức được Thiên Chúa ôm vào lòng.

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN

 

Trang Tin Mừng hôm nay là một trình thuật tuyệt vời diễn tả về Ơn tha thứ và niềm tin cộng đồng. Đó là một trình thuật phép lạ có dụng ý giáo huấn, trong đó phép lạ được thực hiện như một dấu chỉ của ơn tha thứ. Và cao điểm của bản văn cho thấy Chúa Giêsu có quyền tha tội.

Hôm nay, thánh Mátthêu kể lại chuyện rất đời thường trong hành trình loan báo Tin Mừng của Chúa Giês. Chuyện là người ta khiêng một người bại liệt đến với Chúa Giêsu để xin Ngài cứu chữa. Tuy nhiên thay vì Chúa Giêsu chữa bại liệt thể xác trước nhưng Ngài đã chữa bại liệt tâm hồn. Chúa Giêsu nhận ra sự tê liệt về tâm hồn phải được chữa trị trước tiên. Bởi vì bại liệt tâm hồn nguy hiểm hơn rất nhiều. Nó không chỉ làm ảnh hưởng đến đời sống đức tin của chúng ta, mà còn làm cho ta mất tình nghĩa với Chúa, mất hạnh phúc đời đời. Hơn nữa, qua phép lạ chữa lành này, Chúa Giêsu muốn cho mọi người nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không những có quyền tha tội mà còn chữa lành cả thể xác.

Từ câu chuyện xa xưa về người bại liệt được chữa lành mà những người từ khắp các làng mạc miền Galilê, Giuđê, và Giêrusalem đã chứng nghiệm, vẫn là câu chuyện lạ kỳ của mỗi chúng ta hôm nay, nếu chúng ta biết lắng đọng lòng mình để chiêm ngưỡng.

Ta hãy hình dung lại quá khứ với khung cảnh: Thầy Giêsu đang giảng dạy nơi một căn nhà tư gia quá nhỏ bé, so với  lượng người đông đảo từ khắp các miền lân cận đổ về, bao gồm rất nhiều hạng người, trong đó có mặt cả những con người xem ra rất thế giá đạo đức và thông thái như các vị luật sĩ, biệt phái.v.v. Họ chăm chú lắng nghe và được chứng nghiệm quyền năng diệu kỳ của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.

Điều gì ở nơi thầy Giêsu đã cuốn hút những người từ khắp các làng mạc đổ về ?  Điều gì đã khiến cho anh bại liệt tin rằng Thầy Giêsu có khả năng chữa lành căn bệnh nan giải của anh ? Và hơn nữa, điều gì khiến cả những người khiêng anh  đã tin, đã cùng nhau tìm cách vượt qua  rào cản của đám người đông đúc để sáng kiến đưa người bại liệt từ trên mái nhà xuống gặp được Chúa Giêsu ?

Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ xảy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Marcô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.

Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.

Đứng trước niềm tin cộng đồng, lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa đã thể hiện. “Này anh, anh đã được tha tội rồi”.

Điều đáng nói hơn ở đây là Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc chữa lành  cho người bại liệt, nhưng Ngài đã chọn phép lạ chữa lành như một dấu chỉ của ơn tha thứ: “Để các ông biết ở dưới đất này con người có quyền tha tội… Tôi truyền cho anh hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà”.

“Ngay lúc ấy, người bại liệt chỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa”. Phải chăng niềm tin của người bại liệt được chữa lành đã được chứng nghiệm thêm ?  Và cùng với trải nghiệm được chữa lành nơi thân xác, anh đã thật hạnh phúc để cảm nhận ơn tha thứ nơi tâm hồn.

Như một sự tác động lan tỏa trong niềm tin cộng đồng, việc chứng nghiệm người bại liệt được chữa lành đã làm cho tất cả mọi người đều sửng sốt, và cảm nhận sự tác động của Thiên Chúa, họ “tôn vinh Thiên Chúa” và bảo nhau “hôm nay chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ”.

Đó là những chuyện lạ kỳ của ơn tha thứ, và chính họ đã gặp được Đấng có quyền tha tội. Thật là một điều kỳ diệu khiến cho giới luật sĩ và  biệt phái phải thắc mắc trong lòng: “Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?”

Lời Chúa hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta hãy biết tin tưởng và cậy trông tuyệt đối vào tình yêu của Chúa mà còn mời gọi chúng ta hãy sống đức tin bằng tình liên đới qua việc nâng đỡ dìu dắt nhau đến với Chúa. Bởi vì ngày hôm nay chúng ta bại liệt nhưng không hay biết: bại liệt vì những đam mê trói buộc; bại liệt vì những lười biếng thiếu cố gắng; bại liệt vì những ước muốn nửa vời; bại liệt vì những lần vô cảm trước những nỗi đau của anh chị em mình; bại liệt vì những gì đã khấn hứa với Chúa mà chúng ta không tuân giữ; bại liệt vì lòng nguội lạnh thiếu nhạy cảm trước những nhu cầu thiêng liêng,…. Nếu có những người xung quang chỉ bảo, hướng dẫn, dìu dắt thì chúng ta sẽ dễ dàng gặp được Chúa để Ngài chữa trị kịp thời.

Quả vậy, ơn tha thứ chỉ có thể được Thiên Chúa ban cho mà thôi, và ơn đó cũng chỉ được đón nhận từ niềm tin. Ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết tin vào Chúa, tìm cách đến với Chúa, để cảm nhận được tình thương và ơn tha thứ của Chúa. Để chúng ta cũng được Chúa chữa lành những căn bệnh  tâm hồn, hầu chúng ta tôn vinh Chúa mỗi ngày, hăng hái đứng dậy, đổi mới, và bước đi trong ân sủng của Thiên Chúa như lòng Ngài mong muốn.

 

Đường sống đạo của người giáo dân

Đã bao lần chúng ta có can đảm thành thực nói lên: Veni creator? Chúng ta có ước nguyện được tạo dựng, được tái tạo, được luyện đúc lại, được chết và sống lại với Người không? Chúng ta có tiêu diệt mọi trở lực chống đối lại Chúa Thánh Thần xâm chiếm kia không? Sau khi Phaolô đã ngã quỵ vì nghe tiếng Người, Người đã nói với Thầy cả Anania về Phaolô: “Ta sẽ cho nó biết tất cả những gì nó phải chịu vì danh Ta”. Chúa Thánh Thần đã chiếm đoạt Phaolô, trong giây lát, Người đã phá vỡ mọi bờ đê ngăn cản.

Ai dám ước mong như thế? Ai dám ước mong cho sự hiện diện náo loạn kia mau tới? Ai dám tiến tới đó với một tấm lòng hân hoan?

“Hãy để cho tôi yên thân, Giê‑su, đừng khuấy phá tôi”. Người bị quỷ ám miền Ghêrasa đã nói lên tiếng nói của chúng ta đó! (Mc 5). “Nó ở trong các mồ mả” ‑ nó đi lại giao du với những nơi sang trọng bảnh bao, nó được bảo toàn chu đáo ‑ “không ai kềm hãm được nó, xiềng xích cũng vô ích” ‑ nó sống hoàn toàn độc lập, tự trị, vượt mọi vòng cương toả. “Người ta thường xích chân nó lại” ‑ người ta đã gần nắm lấy được nó, người ta cố gắng dụ dỗ, kết nạp nó, nhưng nó không để cho người ta làm: “gông cùm, nó đã bẻ gãy, xiềng xích, nó đã bứt đứt; không ai trị nổi nó.” ‑ Nó hoàn toàn làm chủ đời nó, nó gác bỏ cuộc sống bên ngoài. Không ai có thể đá động tới nó. Không ai có thể gần lại nó trong cái thế giới mồ mả của nó.

“Và liên lỉ, đêm ngày, nó không bỏ lỡ cuộc hội hè vui chơi trần tục nào ‑ “nó lang thang trên các mồ mả, trên các ngọn núi” ‑ trên các đỉnh chót của nghệ thuật! ‑ “luôn la hét” ‑ đó chính là phương pháp hữu hiệu nhất để tránh khỏi phải nghe những lời mình không muốn nghe. Phải điếc đi ‑ để quên! ‑ “và lấy đá rạch thịt cho chảy máu”: mơ mộng, nhớ nhung, buồn vớ vẩn, phim ảnh, tiểu thuyết đen: suốt ngày nó không làm gì khác ngoài việc hành hạ thân xác nó. “Thấy Chúa Giê‑su từ đàng xa, nó chạy tới” ‑ nó là một đứa thông minh: nó tấn công trước. Như thế chắc hơn.

“Hãy để tôi yên, hỡi Giê‑su, Con Thiên Chúa chí tôn” ‑ Hãy cút đi cho rảnh! Đừng nói những chuyện ấy với tôi, những chuyện ấy, những người ấy, những mối phúc thật vô duyên ấy, những đoàn thể mà tôi nhờm gớm ấy, những thứ hội hè, hiệp nhất, yêu người ấy, những mối quan tâm ấy. Đừng nói gì với tôi cả. Tôi đã mua nếp sống tự do này với giá cắt cổ. Xin đừng quấy rầy tôi, đừng hành hạ tôi vì những chuyện vô lý ấy.

“Nhưng Chúa Giê‑su phán: Hỡi tà thần, hãy ra khỏi người này. Rồi Người hỏi nó: tên mình là gì? Nó thưa: tên chúng tôi là đạo quân, vì chúng tôi đông lắm” ‑ Phải, chúng đông lắm rồi. Bây giờ không phải là lúc để hỏi.

Và rồi, biết chắc thế nào Chúa Giê‑su cũng sẽ can thiệp, chúng xin Người cho phép nhập vào đàn heo. Chúng nghĩ: có lẽ ít ra ở đó Chúa sẽ không đến phá chúng nữa. “Chúa cho phép chúng… đoàn vật lao xuống biển chết ngộp hết: tất cả chừng hai ngàn con”… “Dân chúng tuôn đến xem những việc đã xảy ra. Họ tới gần Chúa Giê‑su và thấy đứa bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo hẳn hoi, vẻ mặt tỉnh táo.” Nó đã cương quyết trút bỏ tất cả cái vẻ xa hoa của những cuộc hội hè vui chơi trần tục để: ngồi đó ‑ mặc quần áo hẳn hoi ‑ vẻ mặt tỉnh táo: khắc khổ quá phải không bạn? “Dân chúng kinh hoàng” ‑ nếu cuộc đời cứ dệt bằng toàn những biến cố như thế, thì thật không thể sống nổi nữa! ‑ “và họ xin Chúa Giê‑su đi ra khỏi xứ của họ”.

“Lúc Chúa xuống thuyền, người bị quỷ ám được chữa khỏi năn nỉ xin được theo Người. Chúa Giê‑su từ chối, Người bảo: “Con hãy về nhà sống với gia đình con, và kể cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm cho con vì lòng thương xót của Người”.

Bạn thiếu niên đó vừa qua một tuần tĩnh tâm. Anh cảm thấy Thiên Chúa đã chạm đến anh, giải thoát anh khỏi quyền lực ma quỷ, “được chữa khỏi bệnh quỷ ám”, anh cảm thấy sôi lên ước vọng hoàn thiện. Chỉ còn một kết luận hợp lý phải chọn: vào dòng. Hoặc là: nếu hoàn cảnh không cho phép ‑ mẹ già bệnh hoạn, vợ, chồng, con cái ‑ anh sẽ đợi, thân xác ở đây, nhưng con tim trong tường thành tu viện, tâm hồn dâng hiến trên bàn thờ và đôi mắt sẽ mãi đăm đắm nhìn trời.

Nhưng Chúa Giê‑su lại nói với anh: “Hãy về nhà sống với gia đình con đi”. Bổn phận con là phải làm một việc khác. Con, một giáo dân, con phải phụng sự Ta ở nơi khác. Con có một sứ mệnh khác phải thi hành. “Và con hãy kể cho họ nghe…” Con hãy lo đến họ. Hãy nói cho họ nghe về Cha. Hãy kể lại cho thế gian biết lòng nhân từ của Cha thay vì mơ ước lênh đênh trên con thuyền này, con thuyền không phải là địa sở của con. Con đừng coi cuộc sống của con như một đấng bậc tạm thời. A, không! cuộc sống đó đẹp lắm! Bao người ở đó đang chờ đợi con mạc khải cho họ “những gì Chúa đã làm”, những gì tình yêu của Chúa đã có thể làm.

Chúng ta cũng vậy, hãy trở về với cuộc sống chúng ta, “cuộc sống mạt kiếp” mà chúng ta chán ngấy kia, một cuộc sống mà chúng ta không bao giờ biết thấy rằng nó đã được Chúa thánh hoá, và đã được Người chọn làm địa điểm để gặp gỡ chúng ta từng giây từng phút.

Tin vào giá trị thiêng liêng của cuộc đời mà họ gọi là trần tục: đó phải là điểm cốt yếu trong “con đường hoàn thiện của người giáo dân”.

Những thứ mà phần lớn chúng ta đều thiếu: là sự hãnh diện và niềm vui hạnh phúc: đó là cái ý thức hãnh diện rằng chúng ta đang mang một sứ mệnh, chúng ta đang phụng sự Chúa, từ sáng chí tối, trong môi trường chúng ta đang sống. Nghị lực, chúng ta không thiếu: chúng ta làm việc rất can đảm, đến như điên cuồng. Thường khi quá mức nữa. Nhưng không thấy hân hoan. Bị chôn vùi trong một công việc mà chúng ta tự cho là hoàn toàn trần tục, chúng ta đã phải cố gắng gỡ tội cho cái trần tục đáng khinh đó bằng cách chen vào đó những giây phút cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúng ta gặm xung quanh rìa. Vì không thể trút bỏ được cả trần tục, thôi thì đành bẻ bớt nó đi vậy, càng sứt mẻ nhiều càng hay.

Như thế thành thử tôn giáo chúng ta gần như nằm bên lề cuộc sống chúng ta, nghề nghiệp chúng ta, lo âu, đau khổ của chúng ta. Một “cuộc đời tu trì”… Phải, chúng ta vẫn công nhận đó là cuộc đời đẹp nhất (“Ma‑ri‑a đã chọn phần tốt nhất”) nhưng… nhưng đó không phải là cuộc đời dành để cho tôi. “Khi tôi còn trẻ, tôi đã có lần mơ ước vào tu viện. Chuyện đó có lẽ phải đợi tới khi người bạn đời tôi khuất bóng… Hiện giờ tôi đang phải đa đoan nhiều công việc quá. Nhưng chừng nào về hưu, tôi sẽ khởi sự cầu nguyện trở lại, suy gẫm trở lại…”

Và một khi lòng tin lên cao một chút nữa, người giáo hữu sẽ bắt đầu mơ ước cuộc sống trong tu viện, bắt đầu nhìn các tu sĩ với cặp mắt thèm thuồng, bắt chước họ và chờ đợi ngày giờ được thanh bình sống nếp sống của các người goá, các người về hưu kia! Một nếp sống nhàn hạ mà đạo đức!

Các nhà tu hành thường là những người đầu tiên phải chịu trách nhiệm về thái độ thất vọng thụ động này. Vì có nhiều nhà tu còn quan niệm đời sống giáo dân chẳng qua chỉ là một sự sụt giá của cuộc sống tu trì. Nên họ chủ trương một cách hết sức ngây thơ rằng, nếu muốn bắt đầu nâng cao mực sống thiêng liêng, người giáo dân phải làm như họ. Lúc một luật sư tới xin thánh Catarina thành Sienna làm linh hướng cho mình, thánh nữ trả lời: “Tôi rất sẵn lòng, nhưng với hai điều kiện: điều thứ nhất, ông phải bỏ vợ con; điều thứ hai, ông phải bỏ nghề nghiệp”. Và chỉ bấy giờ ông mới có thể nghĩ đến chuyện nên thánh. Rất ít có người giáo dân nào dám không có một quan niệm tương tự. Vì thế… họ tạm gác việc nên thánh qua một bên!!!

Phần đông giáo dân không biết được ơn thiên triệu của mình. Họ đã không hiểu rằng Thiên Chúa đang cần họ ở chính nơi họ đang sống để tiếp tục sứ mệnh của Người trong thế gian. Họ không hiểu rằng Thiên Chúa tin tưởng nơi họ để hoàn tất việc thánh hoá thế gian. Rằng Người đã trao cho họ cái công việc này, những đứa con này, người bạn đường này, chức vụ này, và họ là người quản lý khôn ngoan mà Chúa đặt lên quản sóc một phần gia sản, một nhóm gia nhân Người, để sẽ phân phát đúng lúc cho mỗi người phần thực phẩm của họ.

Nơi bạn ở, bạn có biết không, Thiên Chúa cần một người để hướng dẫn đứa con này, để mưu cầu hạnh phúc cho người chồng này, người vợ này, để chu toàn công việc này… để minh chứng tình yêu của Người, Người có thể tự mình làm được tất cả chứ? Không cần đến bạn chứ? (Như trong phim Quo Vadis; Thánh Phêrô đã ngán rồi, thánh Phêrô ra đi, thánh Phêrô đào ngũ. Vì thế Chúa đứng ra thế chỗ Ngài. “Ta đi Roma để chịu đóng đinh thêm lần nữa”).

Thiên Chúa có thể một mình làm lấy tất cả. Nhưng Người đã muốn rằng thế gian phải là như thế… rằng nếu chỉ mình Người làm thì không hay bằng. Thiên Chúa đã muốn cần đến bàn tay nhân loại. Người đã muốn chúng ta trở nên cần thiết cho việc hoàn thành công cuộc của Người. “Chúng con sẽ làm được những sự lớn lao hơn Ta”.

Thiên Chúa đã muốn thiết lập một trật tự, trong đó Thiên Chúa, với một người, có thể làm hơn một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nhập thể. Thiên Chúa đã đời đời tự nối kết mình vào việc nhập thể. “Này Ta sai chúng con như Chúa Cha đã sai Ta!”

Người đã sai chúng ta đi. Nếu chúng ta không thực hiện những gì Người mong đợi, sứ mệnh đó sẽ phải dang dở. Người có hỏi ý kiến chúng ta trước không? Không! Người đã yêu chúng ta đến thế đấy! Người tín nhiệm chúng ta đến thế đấy! Người tự biết nếu hỏi ý kiến chúng ta. Chúng ta sẽ nản chí, chùn chân vì khiếp sợ. Vì thế Người đã tự nhủ: Ta sẽ sai nó đi. Nó sẽ xoay xở nổi… nó sẽ vui mừng sau khi… rốt cuộc thế nào chúng cũng sẽ chấp nhận. Ta sẽ ở với chúng. (“Người đi trước đón anh em tại Galilêa”). Rồi thế nào chúng cũng sẽ vui mừng bên cạnh Ta…

Người tin tưởng bạn. Người đã trao công việc của Người cho bạn. Người đợi bạn hoàn tất công việc đó. Người cần bạn để làm cho người vợ này được hạnh phúc, người chồng này được hạnh phúc… Người cần đến bạn để chu toàn công việc này. Người cần đến bạn để làm tiếng nói loan truyền sự dịu hiền, đức trung tín, niềm vui mừng, lòng nhân hậu, sự kiên nhẫn, đức tin và sự can đảm của Người. Phải chi bạn biết như vậy! Phải chi bạn vì đó mà biết hãnh diện thêm chút nữa! Phải chi bạn cảm thấy bạn là người đại diện cho Chúa trong môi trường bạn đang sống… Người đại diện là người thay mặt, thay thế cho Chúa bên cạnh những người mà Người đã uỷ thác cho bạn, thế chỗ cho Người, làm thay Người cái công việc mà Người đã đặt vào tay bạn.

Từ ngày nhập thể, Thiên Chúa chỉ có một ước vọng là khởi sự sống trở lại cuộc đời nhân loại mà Người đã hết mực yêu mến, cuộc đời mà trong đó Người đã có thể săn sóc, chữa bệnh, dạy dỗ, giáo dục và thanh tẩy nhân loại cách hoàn hảo đến thế; mà Người đã có thể phụng sự Chúa Cha đến thế; mà Người đã có thể yêu nhân loại và yêu Cha Người được đến thế…

Vì thế Người xin thêm nhiều “nhân tính phụ trội” nữa. Người xin thêm nhiều người nữa để có thể khởi sự trở lại… Người cần đến bạn để có thể khởi sự trở lại. 33 năm ngắn ngủi quá, không đủ bày tỏ tất cả những gì Người muốn. “Hãy thương xót Người, Người chỉ có 33 năm để chịu đau khổ”. Claudel.

Mỗi người chỉ có thể chết một lần… Nhưng Người lại cần phải chịu đau khổ bằng đủ mọi cách. Người cần yêu thương bằng đủ mọi cách, Người đã không thể yêu thương như một người vợ. Người đã không thể yêu thương như một người mẹ. Người đã không thể chết dần mòn như một cụ già. Người sẽ không thể thực hiện được tất cả những gì Người nhất quyết thực hiện nếu bạn không cho phép Người. Người sẽ không thể dâng lên Chúa tất cả sự tôn thờ mà Người hằng mong ước! Có công việc nào hèn hạ đến nỗi không đáng dùng để tôn thờ, để minh chứng Thiên Chúa không? Nếu trong suốt 30 năm, Chúa Con đã làm thợ mộc, thợ nề, và giúp đỡ việc nội trợ… Nếu suốt 30 năm, Mẹ Ma‑ri‑a đã chẳng làm gì khác hơn là lo việc bếp nước, cầu nguyện, giặt giũ… Nếu Thiên Chúa cần đến nghi lễ tôn thờ đó, phụng vụ đó, kinh nguyện đó… thì ai trong chúng ta sẽ được miễn trừ, không phải làm những việc đó để tôn thờ Người? Ai sẽ không cảm thấy qúa hãnh diện, quá sung sướng khi biết mình được chọn để tiếp tục công việc dang dở đó, thế cho Người?

Trong kinh Tiền tụng mỗi ngày bạn đọc: “Chúng con cảm tạ Chúa mọi nơi, mọi lúc, thật là xứng đáng, công bình và cần thiết, là nhiệm vụ và là sự cứu rỗi của chúng con…”, rồi bạn bước ra trở về với “cuộc sống mạt kiếp” của bạn kia, để không thấy có gì phải làm; về với cái “công việc mạt kiếp” của bạn để thấy nó vô nghĩa; về với cái “gia đình mạt kiếp” của bạn để thấy nó tối đen. Có lúc nào và nơi nào mà Chúa không cần được thờ lạy và ngợi khen không? Phải chẳng ở tại chỗ bạn đang ở, cảm tạ Chúa lại không phải là một việc công bình, cần thiết và đem lại ơn cứu rỗi? Có lẽ phải nói: bạn đã chọn nơi đó vì ở đó người ta bỏ không tôn thờ Chúa nữa. Phải thánh hoá tất cả, phải tôn thờ Chúa mọi nơi, mọi lúc! Suốt 30 năm trời Ngôi Con chỉ làm có thế!

“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi sai Con Một Người xuống để cứu thế gian” ‑ nếu Chúa Con đã được sai xuống thế gian, thì ai lại còn có thể không cảm thấy hãnh diện khi được sai vào cuộc đời mỗi sáng ngày? Ai lại còn có thể không cảm thấy hãnh diện khi được làm đứa con mà Người vừa lòng, đẹp ý đến nỗi đã sai vào đời để cứu vớt đời? Đó là công việc của bạn, sứ mệnh của bạn. Trong thế gian. “Xin đừng đem chúng ra khỏi thế gian”. (Ga 17,15).

Bạn sẽ trả lời: không thể được. Một khi đã tin rằng Thiên Chúa yêu tôi, làm sao tôi còn có thể tin được rằng Người đã chủ ý đặt tôi nơi tôi đang ở đây: trong sa mạc này, trong thất bại này, trong sự cằn cỗi này, trong hoàn cảnh bế tắc này, trong cái đau khổ không thể hiểu được này, cái đau khổ kiệt sức vô ích này…

Nhưng Đấng làm đẹp lòng Người mọi đàng, Người đã để cho đi tới đâu? Giếtsémani! Pháp đình! Tay chân bị đóng đinh vào thập giá. Sầu não. Cô đơn. Nhục nhã… “Người đã không thương tiếc Con Một Người.” Và vì yêu thương chúng ta nên Người cũng không tăng tốc chúng ta nữa. Hãy reo mừng vì vinh dự Người ban cho chúng ta: có lẽ tự chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ dám nghĩ đến một tình huynh đệ đậm đà như thế giữa chúng ta và Chúa Giê‑su.

Và như Chúa Cha đã cho Người sống lại, Chúa Cha cũng sẽ cho chúng ta sống lại. Sau ba ngày.

Phải làm việc. “Cha Ta làm việc không ngừng. Ta cũng vậy.” Chúa Kitô còn nói: “Để cho thế gian biết Ta yêu Chúa Cha và vâng giữ mọi mệnh lệnh của Người: chúng con hãy đứng dậy, chúng ta ra khỏi nơi đây”. Chúng ta hãy bỏ nơi cấm phòng, hãy trở về với công việc hàng ngày của chúng ta. Hãy trở lại. Hãy trở lại đón người bạn đường, hãy sinh lại con cái chúng ta, và hãy đảm nhận trở lại những nhiệm vụ nghề nghiệp, gia đình của chúng ta: đó là chủ điểm của đời sống tôn giáo. Đừng mải trân mắt nhìn lên Chúa trong khi phải chăm sóc những kẻ Người đã giao cho chúng ta. Không bao giờ bạn gần gũi Chúa hơn là lúc bạn yêu họ như Chúa đòi bạn yêu.

Thay vì quay mặt đi, bạn hãy nhìn họ kỹ hơn: Chúa Kitô ở trong họ và đợi chờ được khám phá ra để lớn lên trong họ. Cũng như Người hằng ở trong bạn để yêu mến họ với bạn. Tình yêu trong tim bạn cần phải to lớn bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, để bạn có thể yêu họ đúng mức, yêu như họ cần bạn yêu, để yêu chồng bạn, vợ bạn, con cái bạn và láng giềng bạn. Chúng ta thiếu thốn tình yêu đến nỗi Ngôi Lời nhập thể cũng không phải là quá dư để lấp đầy sự thiếu thốn đó. Giả sử Ngôi Lời ngày hôm nay lại vào gia đình nhân loại một lần nữa, bạn có nghĩ Người sẽ chọn một cuộc đời khác cuộc đời của bạn không? Một cuộc đời tầm thường, một khuôn mặt trong muôn một, một gia đình tầm thường, mà Người muốn biến đổi, muốn dốc tràn tình yêu bao la vào đó.

Giá trị tôn giáo của chúng ta không thể đo bằng những lần rước lễ hay thời gian cầu nguyện. Chúng ta phải ăn để sống chớ không phải sống để ăn. Bạn hãy tập trung cuộc đời trên đức ái chớ không phải trên đức thờ phượng. Sự minh chứng đức tin đích thực nhất của bạn là giá trị chức nghiệp và gia đình của bạn.

Vì không biết đến sứ mệnh này nên bạn đã thất vọng. Tôi biết có rất nhiều anh chị em giáo hữu cố gắng cầu nguyện mỗi này 10 phút từ mấy năm rồi mà chưa thành công. Bởi vì công việc của họ đã không được đồng nhất với kinh nguyện của họ. Họ cầu nguyện là không làm việc. Và hễ làm việc là thôi cầu nguyện. Họ đã sắp hai ngăn kéo bên cạnh nhau chớ không lồng vào nhau được. Họ chưa thể tin được rằng phép Rửa tội đã trao ban cho họ một “ơn thiên triệu làm thừa sai”, quan trọng hơn cả “ơn thiên triệu làm tu sĩ”. Họ chưa đủ lòng tin trong thiên chức Kitô hữu của họ: “Chúc tụng Thiên Chúa, là Cha Đức Giê‑su Kitô, Đấng đã gọi chúng ta trong Người từ trước khi tác thành vũ trụ… để ca tụng sự vinh quang cao cả của Ân sủng Người.” (Ep 1,3)

Mà bởi vì trong thực tế bạn không thể quý mến Thiên Chúa hơn quý mến cuộc đời bạn được. Bạn không thể thể yêu mến Chúa hơn yêu mến thánh ý Người được.

Vì thế, cuộc sống trong nghề nghiệp của bạn là một mạc khải về đời sống tôn giáo. Trở ngại lớn nhất trên đường hoàn thiện của chúng ta là đã không biết tới sứ mệnh của mình. Từ ngày nhận lãnh phép rửa, cuộc đời chúng ta không còn là trần tục nữa, mà đã trở nên một nghi thức tôn thờ, một của lễ, một sứ mệnh tông đồ.

Điều quan hệ không phải là sứ mệnh này hay sứ mệnh khác, nhưng là biết mình có một sứ mệnh. Là tự nhủ: Thiên Chúa ở với tôi. Người sai tôi ở nơi tôi đang ở. Kẻ tin rằng chính mình đã tự chọn lấy cuộc đời của mình là kẻ cô độc, buồn tẻ. Nhưng ai tin rằng Thiên Chúa đã chọn cho mình, tin rằng chính Người đã trao phó cho mình những gì đang phải làm hàng ngày đó là người sống trong Thiên Chúa như Ngôi Con. Chúa Con được sai xuống thế gian (“Chúa Cha đã sai Ta”) luôn kết hiệp với Chúa Cha: “Cha không để Ta cô đơn… vì Ta luôn làm những gì đẹp lòng Người”.

“…Những gì Chúa Cha truyền mà Ta đã thi hành làm chứng rằng Chúa Cha đã sai Ta.” (Ga 5,36).

“Cũng như Ta đã giữ các giới răn của Cha và ở trong tình yêu Người, nếu chúng con giữ các giới răn của Ta, các con sẽ ở trong Ta, các con sẽ ở trong tình yêu Ta. Ta nói với các con những sự ấy để niềm vui của Ta sẽ ở giữa các con và niềm vui của các con được trọn hảo.” (Ga 15,10).

Bao lâu còn nhìn các hoạt động của mình qua ống kính nhân loại, chúng ta còn bị các hoạt động đó đu đưa từ nhiệt tình ngây ngô này đến thất bại chua cay khác. Nhưng, Người đã đến nói cho chúng ta biết những sự ấy để niềm vui và an bình của Người hiển trị trong cuộc đời chúng ta.

Cuộc đời mạt kiếp của chúng ta sẽ bừng sáng niềm hãnh diện, biết ơn và vui mừng, nếu chúng ta biết nhận ra nơi cuộc đời chúng ta, nơi công việc chúng ta một ước muốn, một hy vọng của Thiên Chúa đang chờ đợi được chấp nhận, được thoả mãn.

Ite missa est! Về đi: đó là một sứ mệnh! Đó là một sự phái đi! “Nếu đó là xua đuổi, thật là gương mù khi thưa lại: Deo gratias! (Tạ ơn Chúa). Nhưng, hãy ra đi, đi gieo vãi, đi truyền bá, đi dạy dỗ, đi hâm nóng những gì nguội lạnh, chữa lành những gì lở loét, đi vun trồng những mảnh đất khô trồi, đi ủi an, soi sáng và đào bới những mạch suối…

Ngôi Lời đã làm người: đó là bài học cuối cùng sau một sứ mệnh. Và con người ấy giờ đây là chính chúng ta “được sai phái vào thế gian”.

Một thánh lễ trong cuộc đời phải rọi chiếu chúng ta vào thế gian như một lễ Hiện Xuống.

Louis Evely

Bảy tội lỗi xã hội

Mahatma Gandhi là một chính khách vĩ đại, một nhà hiền triết của Ấn Độ, người được Liên hiệp quốc vinh danh thật sự (chứ không như ai đó tự vơ vào mình). Chẳng hiểu sao mỗi khi nghĩ về hiện tình của đất nước làm tôi nhớ đến Gandhi, người đã từng cảnh báo thế giới về cái mà ông gọi là Bảy tội lỗi xã hội(Seven Social Sins) mà ông viết ra từ năm 1925, đúng 90 năm trước:

1. Làm giàu mà không nhờ lao động (Wealth without work)

2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm (Please without conscience)

3. Có kiến thức mà không có nhân cách (Knowledge without character)

4. Làm thương mại mà không có đạo đức (Business without morality/ethics)

5. Khoa học mà không có nhân văn (Science without humanity)

6. Có tôn giáo mà không thờ phượng (Religion without sacrifice)

7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc (Politics without principles)

Chúng ta thử xem xét nhanh những tội lỗi này xem sao:

1. Làm giàu không nhờ lao động: Hiện nay, có một nhóm người làm giàu rất nhanh, không phải nhờ kinh doanh giỏi hay làm việc tốt, mà qua quan hệ và hậu duệ. Họ chỉ cần dùng mánh khoé để lôi kéo, “qui hoạch” nhân sự và thế là tạo ra tài sản. Một số thì làm giàu nhờ quan hệ nên tiếp cận được và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một số khác thì làm ra tiền nhờ vào lợi dụng thông tin trong để thao túng thị trường chứng khoán. Một số khác thì làm giàu nhờ tham nhũng, chẳng cần tốn công lao động gì cả.

2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm: Đây là những người ích kỉ, lúc nào cũng muốn hưởng lợi cho cá nhân mà không quan tâm đến phúc lợi của người khác. Đối với họ, câu hỏi đầu tiên là “Tôi làm cái này sẽ có lợi gì cho tôi, việc này có giúp tôi thăng tiến trong sự nghiệp, có làm cho tôi giàu thêm”, và quyết định hành động của họ cũng dựa trên câu hỏi đó. Họ không quan tâm đến người khác, không cần biết đến văn hoá “to give and to take”, không cần có trách nhiệm xã hội và chẳng biết đến hiến dâng là gì. Những người này rất nhiều ở Việt Nam.

3. Có kiến thức mà không có nhân cách: Có ít kiến thức đã là một thiệt thòi, có khi là nguy hiểm, nhưng có nhiều kiến thức mà thiếu nhân cách thì còn nguy hiểm hơn. Chỉ học cho nhiều để có kiến thức mà không cần quan tâm đến cái nội tâm, thì chẳng khác gì đưa một chiếc xe hơi thể thao cho một thiếu niên. Điều này cũng xảy ra trong thế giới khoa bảng, nơi mà người ta thường quan tâm đến sản sinh ra tri thức mới nhưng ít khi nào để ý đến khía cạnh nhân văn của tri thức. Ở Việt Nam, có nhiều người đi học để tiếp thu kiến thức không phải vì dấn thân xã hội, mà vì muốn ăn trên ngồi trốc. Họ hám danh chứ không phải ham học.

4. Làm thương mại mà không có đạo đức: Ngay cả những nhà kinh tế học cổ điển cũng xem đạo đức là nền tảng của thành công trong kinh tế. Cách mà chúng ta đối xử với người khác trong tinh thần bác ái, phục vụ và cống hiến là nền tảng của kinh tế – xã hội. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, các nhà quan sát cho rằng Việt Nam đang ở trong thời kì “chủ nghĩa tư bản man rợ, rừng rú”, chứ không phải “chủ nghĩa tư bản văn minh.” Những người nhận định như thế dựa trên quan sát rằng có những nhóm lợi ích tỏ ra tham lam vô độ, luôn luôn muốn thao túng kinh tế. Có người cho rằng các nhóm lợi ích, nhóm làm giàu bất chính đang tàn phá đất nước.

5. Khoa học mà không có nhân văn: Kinh doanh mà không dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và không xem trọng trách nhiệm xã hội là loại kinh doanh nguy hiểm. Tương tự, trong khoa học, tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm cũng là một tiêu chí quan trọng. Một công trình nghiên cứu cho dù mang tính khả thi cao và có ý tưởng tốt, nhưng làm phương hại đến cộng đồng và xã hội vẫn không được đánh giá là đạt chuẩn mực. Chính vì bản chất đạo đức của khoa học, nhà khoa học còn phải có trách nhiệm với xã hội, vì nhà khoa học cũng chỉ là một thành viên trong xã hội, không thể nào đứng ngoài hay đứng cao hơn xã hội. Công trình tạo ra chủng virút mới của Tàu có thể đó là một thành tựu về kĩ thuật, nhưng không đạt tiêu chuẩn về đạo đức và trách nhiệm xã hội vì thành tựu đó chẳng đem lại phúc lợi gì cho xã hội hay giúp giảm sự đe dọa của một đại dịch. Ở Việt Nam, khoa học chưa phát triển, nhưng đây đó có nhiều người dùng khoa học để làm những chuyện thiếu đạo đức.

6. Có tôn giáo mà không thờ phượng: Nhìn từ ngoài và từ xa, Việt Nam là một nước ngoan đạo, với số lượng chùa chiền và nhà thờ khá nhiều. Người ta đi lễ hội và đi chùa cũng rất nhiều. Nhưng nếu nhìn kĩ thì việc viếng chùa của họ không phải là vì thờ phượng, mà chủ yếu là mê tín, và hối lộ thần thánh. Có thể nói rất nhiều người đến chùa để cầu thần thánh ban cho chức tước và hanh thông trong sự nghiệp, chứ chẳng phải để thờ phượng và hiến dâng. Ngay cả những người trụ trì trong chùa chưa chắc là người tu hành thật, mà có thể đang đóng một vai diễn nào đó để phục vụ cho một thế lực đang chống lưng họ. Có thể nói rằng cái nền tảng tôn giáo ở Việt Nam đã bị xói mòn từ hơn 40 năm qua.

7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc: Đối với Gandhi, những người ham quyền lực thường hành động bất chấp nguyên lí và chân lí. Những người cố vị (nhất định bám ghế) bằng mọi giá và mọi cách là những chính trị gia không có đạo đức. Những nguyên tắc trong chính trị mà Gandhi nghĩ đến bao gồm giúp người dân đi đến những lựa chọn sáng suốt, đối xử với dân một cách công bằng, giữ lời hứa và tuân thủ những gì đã đồng ý, không được nói dối và xuyên tạc, và tôn trọng nhân quyền. Ở Việt Nam, những người như thế này thật là … xưa nay hiếm.

Đối chiếu lại thực tế những gì đang xảy ra, có thể nói là Việt Nam đang – không nhiều thì ít – phạm phải tất cả 7 tội lỗi này. Một thiết chế xã hội tạo ra những con người làm giàu không nhờ lao động và bất chấp đạo đức, những người thích hưởng thụ trên sự đau khổ của đồng bào, những người bằng cấp đầy mình nhưng thiếu nhân cách, những người buôn bán và hối lộ thần thánh, những người cầm quyền mà chẳng quan tâm đến sự thật và lợi ích của xã hội và dân tộc.

Nguyễn Tuấn

Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức XVI kỷ niệm 65 năm Linh Mục

Ngài thụ phong ngày 29-6 năm 1951 tại Nhà thờ Chính Tòa Freising của Tổng giáo phận Munich-Freising, cùng với anh ruột Georg và 42 bạn đồng môn.

Hiện diện tại sảnh đường Clementina trong dinh Tông Tòa, đặc biệt có ĐTC Phanxicô, đông đảo các vị Hồng Y và thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Lên tiếng sau bài ca chúc mừng của Ca đoàn Sistina, ĐTC Phanxicô nhắc đến một nét nổi bật trong ơn gọi LM của Đức nguyên Giáo Hoàng là câu hỏi của Chúa Giêsu ”Hỡi Simon, con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15-19). ”Đây là nét trổi vượt trong toàn đời sống phục vụ như LM và thần học gia mà Ngài (Đức nguyên Giáo Hoàng) không ngại định nghĩa là ”sự tìm kiếm Đấng được yêu mến”: đó là điều Ngài vẫn luôn đã và đang làm chứng ngày nay: điều quyết định trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chính là Chúa thực sự hiện diện, Đấng mà chúng ta mong ước và gần gũi Người trong nội tâm, Đấng mà chúng ta yêu mến và thực sự tin tưởng, tin rằng Chúa thực sự yêu thương chúng ta”.. Chính khi sống và làm chứng một cách khẩn trương và sáng ngời điều duy nhất thực sự quan trọng như thế mà Ngài vẫn tiếp tục phục vụ Giáo Hội, không ngừng góp phần mạnh mẽ vào sự tăng trưởng của Giáo Hội và Ngài thi hành điều đó trong Đan viện bé nhỏ Mẹ Giáo Hội ở Vatican…”.

ĐHY Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, cũng chúc mừng Đức nguyên Giáo Hoàng và trao cho ngài cuốn đầu tiên trong bộ sách tuyển tập tựa đề ”Dạy và học Tình Yêu Thiên Chúa”. ĐHY nói: Xét cho cùng, qua tựa đề đó có nói lên tất cả: chúng ta được kêu gọi dạy điều mà chúng ta đã học được nơi Tình Yêu Thiên Chúa.

ĐHY Angelo Sodano, niên trưởng Hồng Y đoàn, đã ngỏ lời chúc mừng Đức Biển Đức 16 và nhắc lại bài giảng thánh lễ của Người hồi tháng 9 năm 2006 tại Nhà thờ chính tòa Freising, nơi Người thụ phong. Trong bài giảng ấy, ĐGH Biển Đức 16 kể lại rằng: ”Khi tôi nằm phủ phục trên mặt đất như được kinh cầu các thánh bao phủ, tôi ý thức rằng trên con đường này chúng tôi không lẻ loi, nhưng có hàng ngũ đông đảo các thánh đồng hành với chúng tôi và các thánh vẫn còn sống, nghĩa là các tín hữu hôm nay và ngày mai, họ đang nâng đỡ và đồng hành với chúng tôi. Rồi đến nghi thức đặt tay và khi ĐHY Faulhaber nói với chúng tôi: ”Từ nay Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu”, lúc ấy tôi cảm nghiệm thấy rằng việc truyền chức linh mục giống như một sự khai tâm trong cộng đoàn các bạn hữu của Chúa Giêsu, họ được kêu gọi ở với Chúa và loan báo sứ điệp của Ngài”.

ĐHY Sodano cũng nhắc đến sự mô tả của Đức nguyên Giáo Hoàng về bản chất sứ điệp mà các linh mục được kêu gọi loan báo trên thế giới, nghĩa là các LM phải mang đến cho con người ngày nay ”Ánh sáng của Thiên Chúa và Tình Yêu của Thiên Chúa”.

ĐHY cũng nhận xét rằng khi đọc lại những lời của Đức Nguyên Giáo Hoàng ngày nay, chúng ta thấy như một sự đi trước Giáo huấn của ĐGH Phanxicô, Người luôn mời gọi chúng ta hãy đi gặp những người đau khổ nhất, mang lại cho họ tình yêu thương huynh đệ của chúng ta. Đó cũng là đại sứ điệp của Năm Thánh Lòng Thương Xót chúng ta đang cử hành.

ĐHY niên trưởng Hồng Y đoàn cũng xin Đức Nguyên Giáo Hoàng ”đang ở trên núi” chuyên chăm sứ mạng cầu nguyện và suy niệm, tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Hội và các tín hữu. B

uổi lễ mừng kết thúc với lời cám ơn chân thành của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đối với ĐTC Phanxicô vì lòng nhân từ ngay từ đầu đối với Ngài và cám ơn ĐHY Sodano và Mueller cũng như tất cả các Hồng Y và mọi người khác. Sau bản nhạc của Ca đoàn Sistina, các Hồng Y còn ở lại bắt tay và chúc mừng Đức đương kim Giáo Hoàng và vị Tiền Nhiệm (SD 28-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

RadioVaticana

Thánh lễ Tấn phong Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sàigòn

TOÀ TỔNG GIÁM MỤC
180 Nguyễn Đình Chiểu – Quận 3
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
☎ (84.8) 3930 3828
E.mail : tgmsaigon@gmail.com

Số : 231.4-160629-01

Kính gửi : Quý cha,

quý Tu sĩ nam nữ, Chủng sinh

và toàn thể anh chị em giáo dân

trong đại gia đình Tổng Giáo phận Sàigòn-Tp. Hồ Chí Minh

Văn phòng Tòa Tổng Giám Mục trân trọng thông báo :

Thánh lễ Tấn phong Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sàigòn-Tp. Hồ Chí Minh sẽ diễn ra vào lúc 08g30, thứ Năm ngày 04.08.2016, tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sàigòn, số 6 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh.

Tòa Tổng giám mục xin chân thành cám ơn mọi thành phần Dân Chúa trong những ngày qua đã chúc mừng và cầu nguyện cho Đức Tân Giám mục Phụ tá.

Nhân dịp này, Tòa Tổng giám mục cũng không quên cám ơn Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc bổ nhiệm Giám mục Phụ tá cho Tổng Giáo phận Sàigòn-Tp. Hồ Chí Minh.

Kính mời toàn thể quý cha giáo phận, đại diện các Dòng tu Nam nữ và đại diện anh chị em giáo dân tại các giáo xứ, các đoàn thể tông đồ và các giới đến hiệp dâng Thánh lễ để cầu nguyện cho Đức Tân Giám mục Phụ Tá trong hành trình sứ vụ mới.

Trân trọng kính mời.

Tòa Tổng Giám mục ngày 29 tháng 06 năm 2016

(đã ký và đóng dấu)

Linh mục Inhaxiô Hồ Văn Xuân

Tổng Đại Diện

Thứ năm tuần 13 Thường Niên

Ca Nhập Lễ

Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo.

Lời Nguyện Nhập Lễ

Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử, để chúng con trở thành con cái ánh sáng; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc, nhưng gìn giữ chúng con luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Chúng con cầu xin…

 

BÀI ĐỌC I: Am 7, 10-17

“Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Ta”.

Bài trích sách Tiên tri Amos.

Trong những ngày ấy, một vị tư tế ở Bêthel, là Amasia, sai người đến với Giêrôbôam, vua Israel, mà thưa rằng: “Amos đã nổi loạn chống đức vua, ngay trong nhà Israel, xứ sở không chịu nghe các lời của y”. Vì đây, Amos nói rằng: “Giêrôbôam sẽ chết vì gươm, và dân Israel sẽ bị đày xa xứ sở”. Và Amasia đã nói với Amos: “Hỡi nhà tiên tri, hãy trốn sang đất Giuđa mà kiếm ăn và nói tiên tri. Ðừng ở Bêthel mà tiếp tục nói tiên tri nữa. Vì đây là nơi thánh của vua, là đền thờ của vương quốc”. Nhưng Amos trả lời Amasia rằng: “Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri: nhưng tôi là một mục tử, chuyên trồng cây sung. Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo đoàn vật, và Chúa bảo tôi: “Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta”. Và này, hãy nghe lời Chúa phán: “Người bảo: Chớ nói tiên tri chống lại Israel, chớ chỉ trích dòng họ kẻ theo dị thần”. Chính vì thế mà Chúa phán như sau: “Vợ ngươi sẽ gian dâm trong thành phố. Con trai con gái ngươi sẽ gục ngã dưới lưỡi gươm. Ruộng vườn ngươi sẽ bị phân tán. Chính ngươi, ngươi sẽ chết trên đất nhơ nhớp, và dân Israel sẽ bị đày ải xa quê hương mình”.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 18, 8. 9. 10. 11

Ðáp: Phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy (c. 10b).

1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.

4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong.

ALLELUIA: Ga 8, 12

All. All. – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – All.

PHÚC ÂM: Mt 9, 1-8

“Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: “Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi”. Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: “Ông này nói phạm thượng”. Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: “Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng “Tội con được tha rồi”, hay nói “Hãy chỗi dậy mà đi”, đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội”. Bấy giờ Người nói với người bất toại: “Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con”. Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.

Ðó là lời Chúa.

Lời Nguyện Tiến Lễ

Lạy Chúa, Chúa dùng các bí tích để ban phát ơn cứu độ; xin cho cộng đoàn chúng con biết cử hành lễ tế thờ phượng này với tinh thần phục vụ của Đức Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Kinh Tiền Tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Vì thế, cùng với ca đoàn các Thiên thần, chúng con ca ngợi Chúa và hân hoan tuyên xưng rằng: Thánh! Thánh! Thánh!

Ca Hiệp Lễ

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi. Toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh.

Lời Nguyện Hiệp Lễ

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chúng con vừa dâng lễ tạ ơn và đã được rước Mình và Máu Con Chúa là nguồn mạch sức sống dồi dào; xin cho chúng con hằng gắn bó cùng Chúa để sinh hoa quả tồn tại đến muôn đời. Chúng con cầu xin…

 

Đức Phanxicô nói về Martin Luther và sự hiệp nhất

Trên chuyến bay từ Armenia về Roma, hôm chúa nhật, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã có buổi phỏng vấn trên máy bay như lệ thường với các ký giả.

Ngài nói lên suy nghĩ về nhiều vấn đề, từ chuyến đi Armenia, đến các chuyến tông du sắp tới ở Azerbaijan và Ba Lan, đến vai trò của Đức Giáo hoàng Danh dự, sự hiệp nhất Kitô, phong trào kháng cách, Brexit, ý tưởng về nữ phó tế, và việc Giáo hội phải xin lỗi vì những kỳ thị với người đồng tính.
Tilmann Kleinjung (ARD, Đức): Thưa Đức Thánh Cha, con muốn hỏi cha một câu. Hôm nay, cha nói về những ơn của các Giáo hội chia sẻ, ơn mà các Giáo hội cùng chia sẻ. Bốn tháng nữa, cha sẽ đến Lund dự kỷ niệm 500 năm phong trào kháng cách, con nghĩ có lẽ bây giờ là lúc để chúng ta không chỉ nhớ về những vết thương trong quá khứ của cả hai bên, nhưng còn là lúc để nhận ra những ơn của phong trào kháng cách. Có lẽ, cũng đến lúc để hủy án phạt rút phép thông công với Martin Luther, hay một sự hòa giải nào đó. Con xin cảm ơn cha.

Cha nghĩ rằng những ý định của Martin Luther không sai. Ngài là một nhà cải cách. Có lẽ một vài phương pháp đã không đúng. Nhưng, thời đó, nếu chúng ta đọc chuyện đời của một mục tử, một người Đức, đã thay đổi khi thấy thực tế thời đó, thấy Giáo hội không thực sự là môt hình mẫu để noi theo. Trong giáo hội có tham nhũng, có trần tục, bám víu vào tiền bạc, quyền lực …thế là ngài phản kháng. Ngài thông minh và đã có những bước hướng về suy tư công chính hóa, và ngài đã làm. Ngày nay, người phái Luther, người Công giáo, Tin Lành, tất cả chúng ta đều đồng ý về giáo lý công chính hóa.

Về điểm này, một điều hệ trọng là, ngài đã không sai. Ngài đã chế thuốc cho Giáo hội, nhưng rồi thuốc này kết cấu thành một khuôn khổ, thành một đường lối đức tin, thành một đường lối hành động, một lối phụng vụ, và không chỉ có ngài, mà còn có Zwingli, có Calvin, mỗi người mỗi khác, và phía sau họ là ai? Các vua chúa. Chúng ta phải đi vào trong chuyện của thời đó. Đây là chuyện không dễ hiểu, không dễ.

Rồi thì mọi chuyện tiến tới, và ngày nay đối thoại rất tốt đẹp. Bản văn về công chính hóa, là một trong những văn bản đại kết phong phú nhất trong thế giới, một điểm mà hầu hết đều đồng thuận. Nhưng có những chia rẽ, cũng do các giáo hội. Ở Buenos Aires, có hai giáo hội Luther, và mỗi giáo hội nghĩ mỗi cách khác nhau …ngay cả trong cùng giáo hội Luther cũng không có sự hiệp nhất, nhưng họ tôn trọng nhau, họ yêu thương nhau, và điều khiến tất cả chúng ta rất đau đớn chính là sự khác biệt, và ngày nay chúng ta tìm cách để đi theo con đường gặp gỡ nhau sau 500 năm chia rẽ. Cha nghĩ chúng ta phải cầu nguyện với nhau, phải cầu nguyện. Cầu nguyện là điều quan trọng. Thứ hai, làm việc chung vì người nghèo, vì những người bị bách hại, vì nhiều người, vì các người tị nạn, vì nhiều người đau khổ, làm việc với nhau và cầu nguyện với nhau, các thần học gia cũng nghiên cứu với nhau, nhưng đây là con đường dài, rất dài.

Có lần cha đùa rằng: ‘Tôi chẳng biết khi nào sẽ có hiệp nhất trọn vẹn.’ Khi nào đây? ‘Ngày Con Người sẽ đến’, bởi chúng ta không biết… Thần Khí sẽ ban ơn, nhưng trong lúc này, chúng ta hãy cầu nguyện, yêu thương nhau và cùng làm việc với nhau. Trên tất cả, hãy vì người nghèo, vì người đau khổ, vì hòa bình và nhiều chuyện khác… chống lại nạn bóc lột và nhiều việc nữa mà chúng ta phải chung tay hành động.

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO 2016

 

Hội Thánh Truyền giáo,

Chứng nhân của Lòng Thương xót

Anh Chị Em thân mến,

Năm Thánh Lòng Thương Xót mà Hội Thánh đang cử hành chiếu rọi vào Ngày Chúa nhật Thế giới Truyền giáo một ánh sáng chói ngời: nó mời gọi chúng ta nhìn việc truyền giáo cho muôn dân (missio ad gentes) như là một công trình bao la, vĩ đại của lòng thương xót, cả thiêng liêng và vật chất. Trong ngày Chúa nhật Thế giới Truyền giáo này, tất cả chúng ta được mời gọi “đi ra” như những môn đệ truyền giáo, mỗi người quảng đại cống hiến tài năng, tính sáng tạo, sự khôn ngoan và kinh nghiệm của mình để đem sứ điệp tình thương dịu hiền của Thiên Chúa đến cho toàn thể gia đình nhân loại. Do mệnh lệnh truyền giáo, Hội Thánh chăm lo cho tất cả những người không biết đến Tin Mừng, vì Hội Thánh muốn mọi người được cứu rỗi và trải nghiệm tình thương của Chúa. Hội Thánh được sai đi loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa, trái tim đang đập của Tin Mừng” (Misericordiae Vultus, 12) và công bố lòng thương xót tại mọi góc cùng của thế giới, đến với hết mọi người, người già cũng như người trẻ.

Khi lòng thương xót gặp được một người, nó đem lại niềm vui sâu xa cho lòng Chúa Cha; vì từ ban đầu Cha đã yêu thương hướng về những người dễ bị tổn thương nhất, vì sự cao cả và quyền năng của Người được mặc khải chủ yếu nơi khả năng Người tự đồng hoá mình với những người trẻ, những người bị gạt ra bên lề, và những người bị áp bức (x. Đnl4,31; Tv 86,15; 103,8; 111,4). Người là vị Thiên Chúa hiền từ, quan tâm chăm sóc và trung thành, Đấng gần gũi những ai gặp khốn khó, nhất là những người nghèo; Người dịu dàng đi vào thực tại của loài người giống như người cha người mẹ đi vào đời sống của con cái họ (x. Gr 31,20). Khi nói đến lòng dạ, Kinh Thánh sử dụng từ ngữ có nghĩa là lòng thương xót: vì vậy nó chỉ về tình thương cùa người mẹ đối với những đứa con của mình, những đứa con mà bà sẽ luôn luôn yêu thương, trong mọi hoàn cảnh và bất chấp điều gì xảy ra, vì con cái là hoa trái từ lòng dạ của bà. Đây cũng là một khía cạnh cốt yếu của tình yêu Thiên Chúa đối với các con cái của Người, những đứa con Người đã dựng nên và muốn nuôi nấng dạy dỗ; đứng trước những sự yếu đuối và bất trung của họ, trái tim Người vẫn tràn trề sự cảm thương (x. Hs 11,8). Người tỏ lòng thương xót đối với mọi người; tình thương của Người dành cho hết mọi người và lòng nhân hậu của Người mở ra cho mọi loài thụ tạo (x. Tv 144,8-9).

Lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ một cách cao cả và trọn vẹn nhất nơi Ngôi Lời Nhập Thể. Đức Giêsu mặc khải khuôn mặt của Cha, Đấng giàu lòng thương xót; Người “dùng các kiểu so sánh và các dụ ngôn để nói và cắt nghĩa về lòng thương xót, nhưng trên hết chính Người làm cho lòng thương xót trở thành nhập thể và nhân cách hoá” (Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, 2). Khi chúng ta tiếp đón và đi theo Đức Giêsu bằng Tin Mừng và các bí tích, với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể trở thành những con người có lòng thương xót như Cha trên trời là Đấng xót thương; chúng ta có thể học biết yêu thương như Người yêu thương chúng ta và biến cuộc đời chúng ta trở thành một món quà cho không, một dấu chỉ lòng nhân ái của Người (x. Misericordiae Vultus, 3). Giữa lòng nhân loại, Hội Thánh trước hết là cộng đoàn sống bằng lòng thương xót của Chúa Kitô; Hội Thánh thấy được cái nhìn của Người và cảm nhận rằng mình đã được Người chọn vì tình yêu nhân từ của Người. Chính qua tình yêu này mà Hội Thánh khám phá lệnh truyền yêu thương, sống tình yêu thương và làm cho mọi người biết đến tình yêu thương này qua một cuộc đối thoại trân trọng với mỗi nền văn hoá và mỗi niềm tin tôn giáo.

Giống như trong những ngày đầu của Hội Thánh, tình yêu nhân từ này được làm chứng bởi nhiều người nam cũng như nữ, thuộc mọi lứa tuổi và mọi thân phận. Sự hiện diện đáng kể và ngày càng tăng của nữ giới trong thế giới truyền giáo, hoạt động bên cạnh những người nam, là một dấu chỉ có ý nghĩa về tình mẫu tử của Thiên Chúa. Các phụ nữ, trong bậc sống giáo dân cũng như tu sĩ, và ngày nay thậm chí nhiều gia đình, đang thể hiện ơn gọi truyền giáo của họ dưới nhiều hình thức khác nhau: từ loan báo Tin Mừng tới phục vụ bác ái. Cùng với hoạt động rao giảng Tin Mừng và phục vụ bí tích của các nhà truyền giáo, các phụ nữ và các gia đình thường hiểu rõ hơn các vấn đề của dân chúng và biết cách cư xử với họ một cách thích hợp, đôi khi rất sáng tạo: trong việc chăm sóc đời sống, tập trung vào con người hơn là cơ cấu, và dành các nguồn lực nhân bản và thiêng liêng cho việc kiến tạo các mối quan hệ tốt, sự hoà hợp, hoà bình, tình liên đới, đối thoại, sự hợp tác và tình huynh đệ, cả giữa các cá nhân với nhau và trong đời sống xã hội và văn hoá, đặc biệt qua việc chăm sóc người nghèo.

Tại nhiều nơi, việc rao giảng Tin Mừng bắt đầu bằng việc giáo dục, được hoạt động truyền giáo dành cho rất nhiều thời gian và công sức, giống như người trồng nho nhân từ của Tin Mừng (x. Lc 13,7-9; Ga 15,1), kiên nhẫn chờ đợi cây nho sinh hoa kết quả sau nhiều năm tăng trưởng chậm chạp; bằng cách này họ làm phát sinh một dân mới có khả năng rao truyền Tin Mừng, họ sẽ đem Tin Mừng đến những nơi mà người ta nghĩ là Tin Mừng không thể được biết đến bằng cách nào khác. Hội Thánh cũng có thể được định nghĩa như là “người mẹ” cho những ai một ngày kia sẽ có niềm tin vào Đức Kitô. Vì vậy tôi mong rằng dân thánh của Thiên Chúa sẽ tiếp tục thi hành việc phục vụ hiền mẫu này về lòng thương xót, nó giúp cho những ai chưa biết Chúa có thể gặp được Người và yêu mến Người. Đức tin là quà tặng của Thiên Chúa chứ không phải kết quả của việc cải đạo; trái lại, đức tin lớn lên nhờ đức tin và đức ái của những người rao giảng Tin Mừng làm chứng cho Đức Kitô. Khi đi qua các con đường của thế giới, các môn đệ của Chúa Giêsu phải có một tình yêu vô biên, cùng một mức độ yêu thương như Chúa đã yêu thương mọi người. Chúng ta công bố những hồng ân đẹp nhất và lớn lao nhất mà Người đã ban cho chúng ta: sự sống và tình yêu của Người.

Mọi dân tộc và mọi nền văn hoá đều có quyền đón nhận sứ điệp cứu độ là món quà của Thiên Chúa cho mọi người. Điều này lại càng cần thiết khi chúng ta nghĩ đến biết bao cảnh bất công, chiến tranh và khủng hoảng nhân đạo vẫn còn đang cần được giải quyết. Từ kinh nghiệm, các nhà truyền giáo biết rằng Tin Mừng của sự tha thứ và lòng thương xót có thể đem lại niềm vui và sự hoà giải, công lý và hoà bình. Lệnh truyền của Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20), lệnh truyền nàychưa dừng lại; đúng hơn, nó thúc đẩy tất cả chúng ta, trong bối cảnh của thế giới đầy thách thức ngày nay, phải lắng nghe tiếng gọi canh tân “động lực” truyền giáo, như tôi đã lưu ý trong Tông huấn Evangelii Gaudium: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ cho, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (số 20).

Năm Thánh này đánh dấu kỷ niệm 90 năm Ngày Thế giới Truyền giáo, lần đầu tiên được phê chuẩn bởi Đức giáo hoàng Piô XI năm 1926 và được tổ chức bởi Hội Giáo hoàng Truyền Bá Đức Tin. Vì vậy đây là dịp thích hợp để nhớ lại những chỉ thị khôn ngoan của các vị tiền nhiệm của tôi, các ngài đã truyền rằng phải dành cho Hội này tất cả các khoản quyên góp tại mỗi giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn dòng tu, hiệp hội và phong trào giáo hội trên khắp thế giới để chăm lo cho các cộng đoàn Kitô hữu đang túng thiếu và nâng đỡ việc rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Hôm nay cũng vậy, chúng ta tin tưởng vào dấu chỉ này của sự hiệp thông truyền giáo của Hội Thánh. Chúng ta đừng đóng kín lòng mình với các mối quan tâm riêng của mình, nhưng hãy mở lòng chúng ta ra cho toàn thể nhân loại.

Đức Maria rất thánh là biểu tượng siêu vời của nhân loại được cứu chuộc, và là mẫu gương truyền giáo cho Hội Thánh, xin Mẹ dạy cho mọi người nam và nữ cũng như các gia đình biết nuôi dưỡng và bảo vệ ở mọi nơi sự hiện diện sống động và mầu nhiệm của Chúa Phục Sinh, Đấng đổi mới các mối quan hệ giữa người với người, các nền văn hoá và các dân tộc, và là Đấng đổ tràn lòng thương xót và niềm vui trên mọi người.

Vatican, ngày 15 tháng 5 năm 2016, Đại lễ Hiện Xuống

PHANXICÔ